|
“Đến với muôn dân” là tựa đề của một Sắc lệnh trong văn kiện
của Công đồng Vatican II. Nội dung Sắc lệnh này là lời mời
gọi mọi thành phần Dân Chúa cộng tác vào sứ mạng truyền giáo,
theo lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh
em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt
28,16-20).
Khi xác định “đến với muôn dân”, Giáo Hội không c̣n là một
cơ chế hành chính khép kín, đóng khung trong một nền văn hoá
riêng biệt hoặc một châu lục hay một quốc gia. Trái lại,
Giáo Hội có sứ mạng đi đến với mọi dân tộc để giới thiệu
Chúa, làm cho chất men Tin Mừng thấm nhập vào mọi nẻo đường
của cuộc sống, xây dựng Nước Trời ở trần gian. Đức Thánh Cha
Phanxicô đă nhiều lần mời gọi Giáo Hội hăy đi ra, hăy mở cửa,
hăy đến vùng ngoại vi để loan báo Tin Mừng.
Một trong những chủ đề chính trong Lời Chúa hôm nay là lời
khẳng định: Thiên Chúa là Cha của gia đ́nh nhân loại. Bất kể
ai, nếu có Đức tin sẽ được chữa lành và cứu rỗi.
Cũng như ḷng nhân hậu, t́nh mẫu tử, sự tha thứ luôn là
chuẩn mực cho con người dù họ thuộc về bất kỳ nền văn hóa
nào, khái niệm về Thiên Chúa diễn tả Đấng là nguyên lư của
mọi loài và là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ. Ngài là Cha của
người da trắng cũng như da đen da vàng. Ngài dựng nên những
người thánh thiện cũng như những người tội lỗi. Ngài đổ ơn
mưa móc xuống cho người công chính cũng như cho kẻ bất lương.
Như thế, bất cứ ai sống dưới gầm trời này mà cậy tin vào
Chúa và kêu cầu Ngài th́ đều được Chúa thương, v́ “Nhà Ta là
nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Chúa sẽ dẫn họ lên núi
thánh và ban cho họ tràn đầy niềm vui (Bài đọc I).
Thánh Matthêu kể lại: hôm đó Chúa Giêsu đi đến miền Tia và
Siđôn. Hai địa danh này diễn tả miền đất của dân ngoại.
Người đàn bà xứ Canaan cũng là một người ngoại. Bà đang đau
buồn v́ con gái bà bị quỷ ám. Chúng ta lưu ư đến hai lời cầu
nguyện của người phụ nữ này. Đó cũng là hai lời cầu nguyện
trong Phụng vụ, xưa cũng như nay: Lạy Ngài là con vua Đavít,
xin dủ ḷng thương tôi!” (Lời kinh trong phần sám hối mở đầu
thánh lễ); “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Lời mở đầu giờ
kinh Phụng vụ). Lời van xin của bà chứng minh một nhu cầu
khẩn thiết và một niềm hy vọng sâu xa. Tuy vậy, lời van xin
thống thiết này ban đầu đă bị Chúa Giêsu khước từ, kèm theo
một lời nói xem ra rất “khó nghe”. Cuộc đối thoại giữa người
phụ nữ này với Chúa được thánh sử Mátthêu tŕnh bày như tiến
tŕnh của lời cầu nguyện nơi người tín hữu: có vẻ như lời
cầu nguyện bị khước từ lúc ban đầu, nhưng sự kiên tŕ và phó
thác sẽ làm thay đổi mọi sự. Không thể cầu nguyện trong sự
nóng vội với một loạt những nhu cầu cấp bách và đ̣i Chúa
phải chấp thuận ngay theo như ư ḿnh. Bởi lẽ lời cầu nguyện
không chỉ đơn giản là những lời xin, mà c̣n là tâm t́nh yêu
mến tạ ơn, c̣n là sự diễn tả nỗi ḷng của người con thảo đối
với cha mẹ ḿnh. Người phụ nữ xứ Canaan đă hiểu điều đó. Bà
đă kiên tŕ và khiêm tốn, do đó lời cầu xin của bà đă được
Chúa nhận lời. Ước vọng của bà đă được đáp ứng. Lời Chúa hôm
nay cũng dạy chúng ta hăy kiên tŕ trong lời cầu nguyện. Lời
cầu nguyện xuất phát từ trái tim chân thành và t́nh yêu mến
thiết tha chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Có những khi
chúng ta không đạt được ngay tức khắc những điều chúng ta
xin, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha nhân hậu.
Ngài muốn những điều thực sự là tốt và đem lại ích lợi lâu
dài cho chúng ta.
Chúa Giêsu đă đến trần gian để quy tụ muôn người thành gia
đ́nh của Thiên Chúa. Người đă phá đổ bức tường ngăn cách
giữa người Do Thái với dân ngoại. Đối với Chúa, người Do
Thái hay người ngoại không phải là điều kiện để Người thực
hiện những phép lạ, mà điều quan trọng là ḷng tin. Ḷng tin
đôi khi phải trải qua thử thách. “Này bà, bà có ḷng tin
mạnh mẽ. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Ḷng tin là điều
kiện để con gái bà được khỏi quỷ ám. Ḷng tin cũng giúp bà
kiên tŕ trong lời van xin, mặc dầu cảm thấy ḿnh bị chối từ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đă nhiều lần khen ḷng tin vững
vàng của những người ngoài Do Thái, như trong trường hợp vị
sĩ quan đến xin Ngài chữa cho con trai ḿnh: “Tôi
bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ítraen nào có
ḷng tin như thế” (Mt 8,10).
Tưởng cũng nên t́m hiểu đôi chút về khái niệm “chó con” được
Chúa Giê-su dùng để chỉ về người phụ nữ dân ngoại. “Con cái”
th́ hiểu về dân Do thái, “chó con” th́ hiểu về dân ngoại.
Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ
không có ư mỉa mai. “Chó con” cho ta h́nh ảnh con vật nuôi
trong nhà, mặc dù không được coi trọng như con người, nhưng
cũng được quư mến chăm sóc và thương yêu. Lời tuyên bố của
Chúa có thể hiểu như một sự thử thách ḷng tin của bà. Lập
luận của bà chứng tỏ sự kiên tŕ và cậy trông, chấp nhận chỉ
là một con chó con chực chờ những mụn bánh nhỏ rơi xuống
trong khi người thực khách đang dùng bữa trên bàn. Sự kiên
tŕ đă đem lại phần thưởng cho bà.
Ngỏ lời với giáo dân Rôma, là những người nguồn gốc dân
ngoại, Thánh Phaolô chứng minh cho họ thấy ḷng thương xót
bao la của Chúa. Ngài không khước từ ai. Những ai kêu cầu
Ngài đều được Ngài thương nhận lời. Chính v́ ḷng thương xót
đối với muôn dân, mà Chúa đă dùng thánh nhân như một tông đồ
của dân ngoại. Thánh Phaolô hiểu sứ mạng của ḿnh và ngài đă
đi đến mọi nơi, xây dựng các cộng đoàn đức tin và giúp họ
nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện trong Đức
Kitô Giêsu (Bài đọc II). Như thế, mỗi chúng ta cũng đă là
những “người thuộc dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh Tẩy,
chúng ta trở thành “con cái trong nhà”, là những người “đồng
thừa kế với Đức Giêsu”, nhờ t́nh thương của Thiên Chúa.
Qua người tín hữu, Đức Giêsu hôm nay vẫn đang đến với muôn
dân. Người là Ánh sáng muôn dân, đem ơn Cứu độ cho đến tận
cùng trái đất. Mỗi chúng ta như cánh tay nối dài của Người,
để đem ánh sáng ấy chiếu soi cuộc đời. “Ở đâu có cộng đoàn
Kitô hữu, ở đó có linh địa của ḷng thương xót” (ĐTC
Phanxicô). Thực thi ḷng thương xót trong nội bộ cộng đoàn
cũng như đối với anh chị em không cùng niềm tin, đó chính là
lời loan báo Tin Mừng hiệu quả nhất. |
|