|
Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đă được
gọi là “các thánh”. Chính Thánh Phaolô đă dùng danh xưng này
để chỉ những người đă gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh
Tẩy. Khi gọi họ là “các thánh”, chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn
diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn
nhấn mạnh tới lư tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới.
Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm
cho ḿnh trở nên đồng h́nh đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để
rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng
ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có
Chúa hiện diện ở đó.
Như vậy, nên thánh không phải chỉ là t́nh trạng thiên đàng
sau khi chúng ta đă chết, mà là một quá tŕnh biến đổi để
hoàn thiện chính ḿnh, để rồi ngay khi c̣n đang sống ở đời
này, chúng ta đă được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc
được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và t́nh mến. Nên thánh
cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời,
như để quên đi những đau khổ hiện tại.
Khái niệm nên thánh như đă nêu trên làm cho đời sống tín hữu
không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên
không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày
hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay.
Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám
phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa. Cuộc
sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù. Con người không lư
tưởng sẽ giống như ngơ cụt. Họ không biết ḿnh sống cho ai
và để làm ǵ.
Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng
của Ngài. Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rơ: “Hăy
nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện,
v́ Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài
đọc I). Lư do của ơn gọi nên thánh là: v́ Chúa là Đấng Thánh.
Ai muốn thuộc về Chúa th́ phải nên giống như Ngài. Thánh
thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để
rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đă tỏa sáng trong
cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của ḿnh đối với đồng loại.
Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi
quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh
chị em, đừng quở trách họ. Không được trả thù, không được
oán hận. Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân
ḿnh.
“Thương người như thể thương thân”. Đó là nét
đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam. Nét đẹp này đă
gặp gỡ lời dạy “Yêu
đồng loại như chính ḿnh” của Cựu Ước và c̣n
hơn thế nữa, là lời dạy “yêu
thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đăi ḿnh” của
Tân Ước. Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt
lên chính ḿnh, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị
phi. Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng
chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là t́nh yêu thương ở
mức tuyệt hảo. Cầu nguyện cho kẻ ngược đăi ḿnh, đó là bằng
chứng của ḷng bao dung và tha thứ trọn vẹn.
Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lư thuyết, nhưng
phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống. Nên
thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân
thành. Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm
chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân. Một cách
rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời
khuyên để đem luật đó vào cuộc sống. Đức yêu thương Chúa
Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước.
V́ vậy, Chúa nói: “Anh
em đă nghe Luật dạy rằng…. C̣n Thầy, Thầy bảo anh em…”. Qua
những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng
kiện toàn lề luật. Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước,
đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo
hơn. T́nh yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi
người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho
chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt.
Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán,
nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân. Chính
điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những
thực hành của những người thu thuế và người biệt phái. Đối
với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, v́
hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng
một Cha trên trời. Mức độ thánh thiện của một người được
lượng giá qua t́nh bác ái mà họ thực hiện đối với người xung
quanh. Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của
người bên cạnh, không thể nên thánh.
Thánh thiện c̣n là nhận ra phẩm giá cao quư của ḿnh trong
cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ
vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài
đọc II). Biết được phẩm giá của ḿnh để tôn trọng thân xác
và trau dồi bản thân trong những lănh vực khác nhau. Chỉ
những ai biết yêu mến trân trọng bản thân ḿnh, th́ mới có
thể yêu mến trân trọng tha nhân. Tác giả thư gửi giáo dân
Côrinhtô cũng chỉ rơ đâu là điều quan trọng đích thực mà
chúng ta t́m kiếm: đó là Đức Kitô. Người là lư tưởng và mẫu
mực cho chúng ta trong hành tŕnh nên thánh. Một khi quy
hướng về Đức Kitô, sẽ không c̣n chia rẽ và ganh ty bè phái
như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là
người th́ cho ḿnh thuộc về Phaolô, người th́ thuộc Apôlô,
người th́ thuộc Kêpha.
Nên
thánh bằng yêu thương. Đó là thông điệp mà Lời
Chúa muốn thông truyền cho chúng ta. Hai ngàn năm nay, Giáo
Hội đă thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ vơ t́nh yêu thương,
phá bỏ những ngăn cách, ḥa giải những bất ḥa và nâng đỡ
người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội,
chúng ta có ư thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực
thi đức yêu thương không?
“Ai không có sức mạnh để tha thứ,
cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin
Luther King Jr.). |
|