|
1. Chương 20 của phúc âm thứ tư được cấu tạo thành một khối
duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần
hiện ra của Đức Kitô phục sinh ở Giêrusalem. Ư chính của
chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lư sang đức tin
thiêng liêng.
Khi đă để ư đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có
thể thấy chương 20 được h́nh thành như sau:
Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
- Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem
Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
- Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem
Mt 28,9tt; Mc 16,9)
Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
- Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho
các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
- Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin
(c.24-49)
Kết cục: (20,30-31)
Nh́n sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt
gần nhau mà c̣n được cấu tạo một cách gần như đồng nhất,
Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria
Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đă khóc khi thấy
mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đă hồ nghi thực
thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ
dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin
vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức
tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt
khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma
đă tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với
ông tám ngày sau.
Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh
Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma
x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức
tin của Maria đă làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông
đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma
khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).
Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm
thể lư sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi
nh́n thấy tấm khăn liệm và dải vải (c.8), Maria tin khi nghe
giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà (c.0, các môn đồ
tin khi ngắm nh́n tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối
cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục
sinh (c.29) khi nh́n thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh
sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự
đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương
20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô
phục sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài
các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai
đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng
thế, đức tin của một Tôma cứng ḷng nhưng đă ăn năn gợi lên
đức tin của tất cả các tín hữu sau này.
2. “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hăy đem ngón tay ngươi đặt
đây, này tay Ta; Hăy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và
đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27).
Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như
làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đă
đ̣i cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một
hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động.
Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích
đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể
của Chúa Giêsu phục sinh.
Không có ǵ trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời
Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời
nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đă đủ cho ông. V́ thế Toma trả
lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”. Lời
tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương
diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự
hiển nhiên của việc phục sinh.
Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong phúc âm Gioan gán tước
hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn
khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của ḿnh vào thiên
tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh,
là cao điểm của toàn thể phúc âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi
và là Thiên Chúa của tôi”, v́ nặng phần giáo thuyết, đă làm
các nhà chú giải để ư nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đă
được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều
lần các sách Tân ước đă gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô.
Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác
định một cách rơ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.
Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa , nhất là trong các thư
mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ
gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53).
Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và
“Thiên Chúa ” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu.
Để xác định ư nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài
tác giả đă nói rằng văn chương ngoại giáo đă dùng tước hiệu
đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào
thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc
chắn rằng môi trường của câu nói này phải được t́m trước hết
trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói
này được t́m thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem
nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1;
Ga 18,17). Có ư nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với
những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ
Thiên Chúa. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi
chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn ḿnh cho Chúa Giêsu như cho
Thiên Chúa (Cv 7,59).
3. Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, phúc âm thứ tư
là “phúc âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl.
VI,14,7). Hơn cả phúc âm nhất lăm, thánh Gioan, thần học
gia, đă nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất cấu tạo nên
đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh
sáng. Ông có tài hiểu được ư nghĩa thiêng liêng của các sự
kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng
của chúng. Tất cả đều xảy ra trên b́nh diện cao quí của tâm
hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa
Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong
chúng ta dù cao quí đến đâu, cũng không xóa bỏ được bản tính
cùng thực tại thể lư. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan
không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan
đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đ̣i
hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.
Như thế, một khi đă để ư đến công tŕnh khảo cứu hiện thời
của khoa phê b́nh văn h́nh sử (Formgeschichte), và độc lập
với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch
sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đă lưu tâm
nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của
Đức Kitô.
Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau,
việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương
tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ
cách rơ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa
Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những
tŕnh thuật của Gioan về các lần hiện ra một ư nghĩa hoàn
toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. V́ thế chúng ta không
chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường
thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena...
chỉ có một giá trị tương đối...(chúng ta phải coi chúng) như
là một lời trong đó các biến cố được kể lại đă trở thành
những h́nh ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The
Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt
khi tác giả phúc âm thứ tư, hơn các phúc âm nhất lăm, đặc
biệt làm nổi bật tính cách thể lư của thân xác Đức Kitô
trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác
giả phúc âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh
nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại?
Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt
cả cuốn phúc âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên
và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang
này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Mt? Khó có thể
t́m ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: v́ Gioan - tác giả
phúc âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh
phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa
Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đă đánh động ông nhất với tư
cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước
khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của
Ngài, với Tôma.
4. “C̣n nhiều dấu lạ khác nữa...": Gioan, khi kết thúc tác
phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có
khi nào người ta viết cạn ư một quyển sách không? hay hơn
nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta
không? Chúa Giêsu đă nói trong bài tạ từ: “Thày c̣n nhiều
điều phải nói với các con...” (Ga 16,2). Với h́nh ảnh Chúa
Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian - thế gian với
tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự măn để có thể đón
nhận đức tin - Gioan nóng ḷng tŕnh bày cho độc giả con
người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con
người gây nhiều ngạc nhiên v́ là thần linh, Gioan có cảm
tưởng tác phẩm của ḿnh chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không
phải là ông không nói hết: thật ra c̣n nhiều dấu lạ khác...(x.
Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là v́ tŕnh thuật không bao
giờ có thể tŕnh bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm ǵ nếu không phải là thuật lại các
dấu chỉ? Chúng ta hăy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên
sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm
này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công
việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của
Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên
một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau v́ phép lạ và lời
nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của
Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ
bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ư
nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời
nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng
liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích.
Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt,
biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn h́nh ảnh được diễn tả.
V́ thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu
chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông
đă làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Độc giả cần phải có đức tin, phúc âm không được viết ra như
một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp
này, Gioan có lẽ chứng tỏ ḿnh thiếu chiến thuật. Thật vậy,
cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng
trên phương tiện thuần lư, nhưng dưới ánh sáng của đức tin
do Thánh Thần cổ vơ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đă
tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng
đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực
thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ
ḷng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách
đă được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của phúc âm (Ga 2-4)
và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn
Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu ḷng tin vào
tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào
giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, th́ sự sống thần
linh và không thể phá hủy càng được trao ban nhờ danh - hay
con người - Chúa Giêsu, v́ Chúa Cha đă ban cho Chúa Giêsu
danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh
cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu th́ nhờ Ngài sẽ được sống
muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)
Không! Tin mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu
chỉ, phúc âm vẫn c̣n là như vậy bao lâu ḷng tin của độc giả
chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi
người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban
cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh
đă hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)
KẾT
LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nh́n, nhưng dựa trên chứng
tá của những người đă thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín
hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô phục sinh (17,20).
Ư
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông
việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên
trong hoạt động của “thế gian”. V́ việc sống lại của Chúa
Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ
không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực
tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay
của khả năng suy tư. Những ǵ ông không thể hiểu, không thể
sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của
thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận
những ǵ nó chứa đựng.
2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp
dụng bằng kinh nghiệm hay lư luận. Đức tin trở nên khó khăn
đối với Tôma, th́ cũng khó khăn đối với tất cả chúng ta. Đức
tin dạy điều khó tin v́ giả thiết một sự vượt quá thường
xuyên con người chúng ta, v́ đức tin là một sự tăng trưởng,
một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc
nhiên.
3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà c̣n là một
cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có ǵ là thoải mái
tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó
có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính ḿnh. Thế
gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể
trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những
sợ hăi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến
luyến. Bao lâu c̣n bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta c̣n
bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta
thường biện minh cho nhau, tự làm cho ḿnh ra vô t́nh và
không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích
nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như năo trạng tập thể của
xă hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay
sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là
ḿnh theo tư tưởng của riêng ḿnh, là không liên đới với
những người khác và phá hủy một cái ǵ cao quí và cần thiết.
4. Tôma thật đáng quí v́ tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi
gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lư
do là v́ Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi
thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân
lư, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo
hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế,
hăy lặp lại lời nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa,
con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.
5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn phúc âm này:
“B́nh an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội
với những lao động bất công và bạo hành, ước ǵ chúng ta
sống trong b́nh an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi
nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta,
khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an b́nh.
|
|