|
1. Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9).
Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11: mô tả các tai họa
trong vũ trụ. Diễn từ này bị gián đoạn v́ lời khai triển dài
ḍng về các biến cố sẽ phải đến “trước tất cả các điều đó”,
là các biến cố không có giá trị dấu chỉ tiên báo ngày chung
cục sắp đến: một đàng là các cuộc bách hại người Kitô hữu sẽ
phải chịu (cc.12-19), đàng khác là h́nh phạt sắp giáng xuống
Giêrusalem (cc.20-24). Lúc đó bài diễn từ mới bàn tiếp các
tai họa vũ trụ sẽ phải xảy ra khi đến ngày thế mạt
(cc.25-33). Diễn từ kết thúc bằng một lời khuyến cáo mới
(cc.34-36). Đây là lược đồ qui tâm (expose concentrique) của
diễn từ.
A. Lời khuyến cáo đầu tiên (cc. 5-9)
B. Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11)
C. Điều xảy ra trước:
a) bách hại người Kitô hữu (12-19)
b) h́nh phạt Giêrusalem (20-24)
B'. Các tai họa vũ trụ ngày thế mạt (25-33)
A'. Lời khuyến cáo cuối cùng (34-36)
Như vậy đoản văn chúng ta chú giải dừng lại ở giữa bài diễn
từ. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi một thành tố đều có ư nghĩa
trong toàn thể.
2. Câu người ta hỏi Chúa Giêsu ở câu 7 có hai phần: trước
hết hỏi về thời gian ("khi nào?"), đoạn hỏi rơ ràng hơn về
dấu chỉ để nhận ra biến cố thực sự đang xảy ra. Cách đặt câu
hỏi như thế giống với hai phúc âm nhất lăm kia. Nhưng biến
cố Lc nhắm đến là việc phá hủy đền thờ, c̣n Mt và Mc đi từ
việc phá hủy đền thờ sang ngày thế mạt. Rơ ràng hơn Mc 13,4,
Mt đặt câu hỏi như sau: “Khi nào các điều đó xảy ra và đâu
là dấu chỉ điềm báo ngày Ngài quang lâm và ngày thế mạt
đến?” (Mt 24,5). Việc phá hủy Giêrusalem, việc Con Người đến
và ngày thế mạt liên hệ mật thiết với nhau. Lc hủy bỏ mối
liên hệ đó. Việc phá hủy đền thờ không là thành tố của các
biến cố đó. Trong suốt bài diễn từ, Lc cố ư tách rời việc
phá hủy đền thờ khỏi biến cố thế mạt, loại bỏ mọi tương quan
giữa hai sự kiện đó. Ngay từ đầu, ông đă muốn tránh mọi lầm
lẫn giữa hai biến cố. Ông tạm thời lưu tâm đến số phận đền
thờ và chỉ đề cập đến ngày thế mạt khi ông có thể minh chứng
thế mạt không liên hệ ǵ đến biến cố năm 70. Câu hỏi trong
câu 7 rơ ràng nhắm đến số phận đền thờ, và toàn bộ bố cục
diễn từ cũng xác quyết điểm đó.
3. Chúa Giêsu nói lời cứng rắn mạnh mẽ chống lại đền thờ và
nói đó được xem như là thời điểm cao nhất trong việc rao
giảng phúc âm, v́ lời đó tiên báo Israel sẽ bị kết án và
loại bỏ. Theo Lc, Chúa Giêsu nói lời đó ngay chính trong đền
thờ, sau khi đă thanh tẩy đền thờ, điều đó cho thấy Ngài
thực sự quản lư vật sở hữu của Ngài. Đền thờ là dấu chỉ cụ
thể Thiên Chúa đang hiện diện giữa dân Người; Israel thấy
đền thờ là lư do tồn tại của ḿnh trong tư thế là dân được
tuyển chọn. Việc phá hủy từ đây ám chỉ họ đă bị bỏ rơi và
cùng khổ, nhục nhă, là những điều mà tiên tri Malakia đă
tiên báo (3,21). Trong lúc mọi người hết lời ca tụng, ngưỡng
mộ vẻ đẹp đền thờ, Chúa Giêsu chỉ thấy đổ nát thiêu hủy. Qua
sự kiện này, Ngài tiếp nối sự nghiệp các tiên tri liên tục
tiên báo các sự đổ nát đă xảy ra (Mi 3,9-12; Giêr 7,14;
26,18; Ez 2,21). Đến lượt ḿnh, Chúa Giêsu nói tiên tri và
hoàn tất sự đổ nát, v́ từ đây Ngài là dấu chỉ duy nhất về sự
hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại.
4. Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi về ngày giờ và dấu chỉ
cuộc phá hủy Giêrusalem. Thay v́ trả lời như thế, c.8 đề
pḥng các Kitô hữu coi thường các kẻ gian manh sẽ t́m cách
đánh lừa họ. Lc trước hết lấy lại phương cách mà Lc đă gán
cho họ: họ là những kẻ tự xưng là đến “nhân danh” Chúa
Giêsu, họ nói: “chính ta đây”, và t́m cách làm thiên hạ kính
trọng họ như là Đấng Kitô. Mc chú tâm nhiều đến hiểm họa
Kitô giả, đến nỗi đă nhắc lại trong phần cuối bài diễn từ
(Mc 13,21-23); họ sẽ làm nhiều dấu chỉ và phép lạ, và lừa
gạt được nhiều người. Lc loại bỏ lời khuyến cáo thứ hai, và
việc đề pḥng của ông, ở c.8 không xác quyết là họ sẽ thành
công trong việc lừa gạt thiên hạ.
Ngược lại Lc thấy trước một hiểm họa khác, đối với ông xem
ra khẩn trương hơn: hiểm họa các người gian manh loan báo
“thời giờ đă đến gần đến”. Theo Lc, đó là “thời giờ” nào?
Dựa vào câu hỏi ở c.7, người ta có thể nghĩ đó là thời gian
tàn phá đền thờ. Nhưng chắc chắn Lc không nghĩ đến điều đó.
Ta thấy được điểm này nhờ câu thiếp theo, là câu nói đến tai
ương mà người ta chỉ có thể kết luận là “ngày tàn” của các
tai ương đó sắp chấm dứt. Diễn từ tiếp tục đề cập đến các
dấu chỉ, theo đó có thể biết là “sự cứu thoát các con đă gần
kề” (c.28), và “Nước Thiên Chúa đă gần đến” (c.31). Sai lầm
mà Lc muốn người Kitô hữu đề pḥng là sai lầm trong ông lưu
ư trong 19,11: “Chúa Giêsu lại nói thêm một dụ ngôn nữa, v́
Ngài đă đến Giêrusalem, và người ta tưởng rằng liền ngay đó
nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện”. Đây là hiểm họa làm Lc lo
lắng: là các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những kẻ
tưởng giờ thế mạt đă gần kề, rằng Nước Thiên Chúa sắp tỏ
hiện trong vinh quang, rằng Con Người sẽ ngự xuống trên đám
mây. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ và
sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin: người ta sẽ thôi
chờ đợi, không sống trong hy vọng nữa. Chính v́ thế Lc nhấn
mạnh: “Các con chớ nghe theo chúng”.
Câu 9 cũng cản giác một nguy hiểm tương tự: nguy hiểm giải
thích các biến cố (không chút liên hệ đến thế mạt) như là
dấu chỉ ngày thế mạt đă gần kề. Theo Mc, người ta sẽ nghe
nói về chiến tranh giặc giă; Lc xác định rơ hơn: “Có chiến
tranh và hoan lạc”, là chữ chỉ các cuộc nổi dậy, phản động,
và người ta nghĩ ngay đến cuộc nổi dậy của dân Do thái. Lúc
bấy giờ chớ sợ hăi. Mc giải thích: “các điều đó sẽ phải xảy
ra, nhưng chưa phải là tận thế”. Ở đây Lc cũng xác định và
nhấn mạnh rơ: “Các điều đó phải đến trước, nhưng chưa phải
là tận cùng ngay đâu”. Đối với Mc, chiến tranh giặc giă chỉ
là dấu chỉ xa của ngày tận thế th́ ra chúng biểu hiện “giờ
đau khổ đă điểm” (Mc 13,8). Trong Lc, chiến tranh, nổi loạn
không có giá trị dấu chỉ tiền phong, dù là dấu chỉ xa; chúng
không liên hệ ǵ với ngày tận thế. Chúng phải xảy ra trước,
nhưng không phải là lời loan báo về ngày tận thế.
Lc biết ngày tận thế không thể đến ngay. Ông sợ các ảo giác
về vấn đề này sẽ làm lung lạc đức tin của Kitô hữu, khiến họ
phải thất vọng. Lời khai mào diễn từ cánh chung đă bị ảnh
hưởng bởi mối ưu tư về nguy hiểm trên.
V́ chính v́ biết ngày tận thế không đến ngay, nên Lc đă
không mô tả các dấu chỉ tiền phong của ngày tận thế: chỉ cần
hai câu để mô tả là đủ (cc.10-11). Vả lại, các dấu chỉ đó
không cho biết thêm điều ǵ. Các đối thoại viên của Chúa
Giêsu đă xin một dấu chỉ, nhưng không phải dấu chỉ về ngày
thế mạt, nhưng là dấu chỉ về việc tàn phá Giêrusalem. Chúa
Giêsu không cho một dấu chỉ, nhưng nhiều dấu chỉ và các dấu
chỉ này không liên hệ tới việc tàn phá Giêrusalem, nhưng
liên hệ tới ngày thế mạt. Hơn nữa, các dấu chỉ này mơ hồ đến
nỗi bất cứ thời nào cũng cảm thấy bị chúng ảnh hưởng. Nhưng
ngoài bối cảnh lu mờ đó, có một điều rơ ràng: ngày tận thế
sẽ không đến ngay.
5. Càng nói phớt qua và không minh xác các dấu chỉ tiền
phong đó, Lc càng nhấn mạnh đến thái độ người Kitô hữu phải
có cho đến ngày thế mạt. V́ thế ngày thế mạt xa dần trong
một tương lai bất định, người Kitô hữu càng cần phải sống
trong thời gian, đương đầu với lịch sử. Đặc biệt họ phải anh
dũng đối đầu với các cuộc bách hại. Và trong lúc Lc ghi lại
diễn từ này, các lời Chúa Giêsu tiên báo về việc bách hại
trong tương lai đă thực sự thể hiện trong lịch sử; sách Cvsđ
đă minh chứng điều đó (Cvsđ 8 và 12).
Lc đă lưu tâm đến đoản văn liên hệ đến các cuộc bách hại đó.
Người ta có cảm tưởng ông muốn khích lệ các người bị bách
hại khi nhấn mạnh đến các lư do nhằm làm họ tin tưởng cậy
trông trong các cuộc thử thách đó. Như thế ḷi tiên báo đă
biến thành lời mời gọi tin tưởng phó thác. Và Lc làm nổi bật
tất cả những ǵ đem lại lợi ích cho người bị bách hại.
“Điều đó sẽ giúp các con làm chứng” (c.13). Cách dịch này
chẳng để ư ǵ đến việc thay đổi nhăn quan. Ông đặt ḿnh về
phe người bị bách hại, để cho thấy lợi ích của các cuộc thử
thách họ phải chịu: đây là bằng chứng chắc chắn cho thấy họ
sẽ được cứu rỗi. Do đó đúng hơn phải dịch là: “Điều đó sẽ là
dịp để các con làm chứng”. Đây là một lời khuyến khích chịu
đựng các đau khổ, chúng là chiến tích hùng hồn biện hộ cho
họ trước ṭa án Thiên Chúa.
Phải đặt lời khuyên đừng lo lắng phải biện hộ thế nào trước
mặt vua chúa quan quyền trong chiều hướng khuyến khích đó,
v́ lời khuyến khích là sứ điệp thiết yếu của diễn từ. Không
những Thiên Chúa sẽ lo liệu bằng cách ban khôn ngoan và
miệng lưỡi, nhưng c̣n lo liệu cho lời nói đó đừng trở nên cớ
vấp phạm. Không ǵ có thể thắng nổi lời nói đó. “Ta sẽ cho
các con miệng lưỡi và khôn ngoan, làm kẻ nghịch các con hết
thảy đều vô phương chống lại hay bắt bẻ các con” (c.15).
Cuối cùng Lc thêm lời hứa: “Dù một sợi tóc trên đầu các con
cũng chẳng hư mất” (c.17). Câu này được gặp lại ở chỗ khác,
trong một bối cảnh khác hẳn (x. Lc 12,7; Mt 10,30) được đặt
ở đây, trong cuối đoản văn mô tả các cuộc bách hại, câu đó
đưa ra một viễn ảnh đen tối và nặng nề; nó nhắc lại sự che
chở đă được hứa trước. Đây cũng là lời mời gọi mới để tín
hữu thêm can đảm và tín thác ngay khi gặp phải cảnh bắt bớ
gian truân.
6. “Các con sẽ giữ mạng sống nhờ biết bền đỗ” (c.19). Đây là
một câu ngắn của Lc, có một nghĩa tổng quát: nó không c̣n
liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của những người sống ngay
trước ngày thế mạt. Nó có giá trị trong mọi thời. Thực ra,
Lc đă không ám chỉ đến ngày sau hết có trong Mc: “Ai bền đỗ
đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Lc biết ngày sau hết
không phải là gần đến; ông kết án là gian manh những kẻ chủ
trương như thế (c.8). Đó là tất cả ư nghĩa việc Lc đọc lại
viễn ảnh cánh chung học của Mc: các cuộc bách hại không liên
hệ với thời sau hết. Đúng hơn chúng biểu thị thân phận người
Kitô hữu trong thế giới, trong lịch sử nhân loại đang c̣n
tiếp diễn.
Sự bền đỗ đó là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can
đảm tin tưởng đương đầu với những vô vị của cuộc sống thường
nhật cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Đó
là quộc thử thách đức tính kiên nhẫn mà Giêremia đă nói, ông
là người đă hết ḷng tin tưởng vào Chúa, nhưng rồi cũng đă
thất vọng v́ đó: “Lạy Giavê, Ngài đă dụ dỗ tôi, và quả thật
tôi đă bị dụ dỗ, Ngài đă bắt tôi và đă thắng tôi. Mỗi ngày
tôi biến thành tṛ cười, nọi người ai cũng chế nhạo tôi”
(Giêr 20,7). Sự bền đỗ theo phúc âm biểu thị “những người
nghe lời với thái độ tốt, đă đào sâu lời đó và mang lại
nhiều hoa quả nhờ kiên tâm bền chí” (Lc 8,15); sự bền đỗ đó
chắc chắn giúp ta được sống cũng như được vào vương quốc (x.
Cvsđ 14,22). Nó được Thiên Chúa hứa và minh chứng ḷng tín
thác vào đấng hoàn tất lời hứa.
KẾT
LUẬN
Thời của giáo hội là thời bách hại. Thời gian này đang tiếp
tục. Việc giải phóng và ơn cứu độ hoàn toàn chỉ bắt đầu với
việc Con Người đến nhưng Ngài chưa đến gấp. Do đó phải kiên
nhẫn và bền chí đứng vững.
Ư
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đứng bên Chúa Giêsu, có nhiều người trầm trồ khen ngợi
Đền thờ và lấy làm hănh diện sung sướng về các viên đá tốt
và các lễ vật quí người ta dâng cúng. Thật thỏa măn và vui
mừng biết bao khi thấy ở chính Giêrusalem có một dấu chỉ
minh nhiên sự hiện diện của Chúa. Nhất là hănh diện biết bao,
v́ đền thờ nguy nga lộng lẫy là công tŕnh của toàn dân,
đồng thời nói lên ḷng trung tín của các tín hữu cũng như sự
che chở của Đấng toàn năng. Tất cả điều đó khiến họ hài ḷng
thỏa măn.
Trước sự ngưỡng mộ chính đáng và quan yếu đó, Chúa Giêsu
phán: “những ǵ các ngươi nh́n ngắm đây, sau này sẽ đến ngày
không c̣n ḥn đá nào nằm trên ḥn đá nào, tất cả sẽ bị tàn
phá”. Nghe vậy chắc các thính giả xôn xao lo lắng lắm. Đền
thờ bị phá hủy th́ c̣n đâu sự che chở của đấng Tối Cao, đâu
c̣n chứng tích của ḷng trung tín?
Chính v́ thế, họ ṭ ṃ và quan ngại: “Thưa thày, bao giờ
những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp
xảy đến ?”
Qua câu hỏi này, thính giả Chúa Giêsu cho thấy họ đă nhận
thức tầm quan trọng của việc chuẩn bị sống các biến cố đó.
Phải khắc phục các tai ương đó, chứ đừng bị chúng bắt chợt.
Niềm tin vào đền thờ, nơi Đấng tối cao đang hiện diện, càng
sống động. Đền thờ càng trở nên quan trọng v́ là dấu chỉ hữu
h́nh của sự hiện diện này, do đó người ta càng khó chịu khi
thấy đền thờ bị tàn phá.
Ngày nay phải chăng người ta cũng có một tâm tưởng như thế,
khi nghĩ là giáo hội đang trên đường diệt vong? Trước những
biến đổi sâu xa do công đồng đem đến, nhiều người tức tối,
nuối tiếc phụng vụ cổ xưa, các bài giảng ngày trước, việc
b́nh thản nhàn hạ đă có từ lâu. Niềm tin của các bạn trẻ hôm
nay, được biểu lộ một cách khác xưa, có c̣n là niềm tin nữa
không? Các linh mục liên hệ với cộng sản là vô thần, có c̣n
là linh mục nữa không? các nữ tu đến sống với các những
nghèo trong các ổ chuột tồi tàn có c̣n là nữ tu nữa không?
Cuối cùng, dù với những ư tưởng ngay lành của thế giới,
người ta sẽ chẳng phá hủy giáo hội sao? Cũng như dân Do thái
ngày xưa muốn bảo tŕ đền thờ Giêrusalem của họ, ngày nay
người ta cũng muốn giữ ǵn giáo hội và những cái gọi là
truyền thống của giáo hội, nhưng giáo hội mới cứu người tín
hữu.
2. Sau các câu hỏi mà giờ đây chúng ta đă hiểu rơ, Chúa
Giêsu mới bắt đầu lên tiếng. Ngài không cho biết khi nào sẽ
xảy ra cuộc tàn phá Giêrusalem, cũng như các dấu chỉ tiên
báo cuộc tàn phá đó. Ngài không bao giờ trả lời để thỏa măn
tính ṭ ṃ hay xoa dịu nỗi ưu tư xao xuyến. Ngài giúp ta can
đảm và b́nh thản đón nhận biến cố. Chính v́ thế, Ngài nói
trước các nguy hiểm, các sai lệch hoặc các cuộc đào tẩu bội
phản có thể xảy ra; đoạn cho biết phải sử dụng năng lực của
ḿnh như thế nào cho hợp lư.
Trước tiên là các nguy hiểm và ảo tưởng. Chúa Giêsu canh
chừng thính giả khỏi mắc mưu các Messia giả. Vào thời hoan
lạc, con người quá xao xuyến đến nỗi phải t́m đến người có
thể trấn an và hướng dẫn họ cách quyền uy. Chúa Giêsu cảnh
giác họ đừng vội tin những người bịa đặt những phép lạ dễ
dăi và những thày phù thủy chữa bệnh tâm tư phiền muộn; đừng
vội theo những ai đơn giản hóa sự việc bằng cách đồng hóa
đức tin với các hệ thống kinh tế hoặc chính trị của họ.
Chúa Giêsu đề pḥng chống lại các ngày thế mạt giả mà chúng
ta thường tin cách dễ dàng: chiến tranh, động đất, ôn dịch,
đói kém... đó là những lệnh báo động giả, nhiều khi rất đánh
động, nhưng chúng ta đừng v́ đó mà xao lăng hoặc quên mất
điều cốt yếu.
Điều cốt yếu là sống đức cậy trông Kitô giáo trong thế giới,
là giữ vững đức tin. Niềm tin luôn làm thế giới chống đối:
Chúa Giêsu nói đó là điều không thể tránh được. Môn đệ không
hơn thày. Người Kitô hữu có thể bị cám dỗ hoảng sợ và kinh
hăi những tội phạm v́ ḷng yếu đuối của ḿnh. Chúa Giêsu cho
họ biết là trong họ có một sự hiện diện siêu phàm đang ngự
trị. Khi đến giờ làm chứng tá, người Kitô hữu không phải
chuẩn bị đối phó, tự vệ: chính Chúa Giêsu sẽ linh ứng cho họ
điều phải nói. Do đó ngay bây giờ phải sống hiện tại cách
tin tưởng hoàn toàn phó thác vào Chúa: không một sợi tóc
trên đầu chúng ta rụng đi mà không có sự thỏa thuận đồng ư
của Ngài. Điều quan hệ là hôm nay hăy sống đời môn đệ Chúa
Kitô cách trung tín ngày qua ngày, luôn kiên tŕ trong đời
Kitô hữu. Đó là đường duy nhất đưa đến cứu rỗi. |
|