|
Đề tài lòng thương xót của Thiên Chúa rất phong phú, dễ đánh
động con tim và tâm tình đạo đức của người tín hữu. Vì thế
mà từ khi Thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và cổ võ hình
thức cầu nguyện kính Lòng Chúa thương xót, trong Giáo Hội đã
có biết bao người tham gia cầu nguyện và thực tế họ đã nhận
được rất nhiều ơn lành.
Tuy vậy, trong quan niệm của nhiều người, cầu nguyện tôn
vinh lòng lòng thương xót Chúa đi liền với xin ơn chữa lành,
cho nên người ta đến cầu nguyện chỉ với mục đích được chữa
khỏi bệnh tật, nhất là những bệnh nan y. Có người đã mất đức
tin và bỏ cầu nguyện vì họ xin ơn chữa lành mà không được
nhận lời. Thực ra, việc tôn kính lòng thương xót của Thiên
Chúa không dùng lại ở những lời kinh, mà phải giúp cho con
người thương xót tha nhân, tức là thực thi lòng thương xót
trong cuộc sống hằng ngày. Nhận ra lòng thương xót của Chúa,
mỗi chúng ta cũng phải có trái tim nhân hậu đối với đồng
loại, để lòng thương xót như một dòng chảy yêu thương, đem
an vui cho mọi người.
Thánh Luca đã tổng hợp ba dụ ngôn về lòng thương xót của
Thiên Chúa ở chương 15. Mỗi dụ ngôn mang một sắc thái khác
nhau, nhưng cả ba đều mang nội dung nói về tình thương bao
la của Chúa. Trong ba dụ ngôn này, dưới ngòi bút của tác giả,
Thiên Chúa rộng rãi bao dung đến mức “phung phí” lòng thương
xót. Quả vậy, một con chiên lạc so với 99 con còn lại, một
đồng bạc bị mất so với 9 đồng bạc vẫn còn thật chẳng đáng là
bao, nhưng Chúa vẫn để ý tới và tìm cho bằng được. Khác với
lối suy nghĩ của chúng ta. Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ đi
những điều nhỏ mọn, nhưng Chúa lại quan tâm đến từng chi
tiết.
Việc tìm thấy một con chiên hoặc một đồng bạc, xem ra đơn
giản, mà lại là niềm vui lớn lao của người sở hữu chúng. Đó
không chỉ là niềm vui của cá nhân, nhưng là niềm vui của cả
một tập thể. Đó không chỉ là niềm vui dưới đất, nhưng là
niềm vui trên trời. Chúa Giêsu đã nói rõ, một người trở về
không chỉ là niềm vui của con người, nhưng là niềm vui của
Thiên Chúa và triều thần thánh trên trời. Niềm vui ấy thật
lớn lao, làm cho người mục tử quên hết mọi mệt nhọc trong
việc tìm kiếm. Cả ba trường hợp, người mục tử, người phụ nữ
và người cha, đều mời hàng xóm láng giềng đến để chia vui.
Người cha trong dụ ngôn còn thết đãi cả làng với thịt con bê
mà ông đã chăm sóc vỗ béo. Ông tin chắc có ngày cậu con trai
hoang đàng sẽ trở về. Vì vậy, ông chuẩn bị sẵn nhẫn, giày,
quần áo và những gì cần thiết cho một bữa tiệc. Những đồ
trang sức này thường được dùng cho một tiệc cưới. Ngày cậu
con trai trở về, cũng là một tiệc cưới, là niềm vui không
chỉ cho người cha mà cho cả xóm làng. Niềm vui được nhân lên
khi được chia sẻ với người khác.
Tuy vậy, niềm vui ấy xem ra không được trọn vẹn, vì theo
thói đời, vẫn luôn có những ghen tỵ thù ghét. Đó là tâm
trạng của người anh cả. Anh nổi giận vì sự trở về của người
em. Có thể anh sợ người em sẽ chiếm gia tài. Lòng thù hận và
tư lợi ngăn cản không cho người khác phục thiện. Con đường
trở về, vừa phải gạt bỏ những mặc cảm thành kiến, vừa phải
đối diện với những thù hận của chính những người thân. Lộ
trình phục thiện xem ra đơn giản mà cũng lắm gian truân. Có
những người vì lỡ lầm mà sa vào cảnh tù tội, sau khi mãn hạn
tù, trở về quê hương muốn sống như một người bình thường
cũng không được yên, vì con mắt dò xét và thành kiến của
những người xung quanh. Những ngôn từ của người anh cả trong
Tin Mừng cho thấy anh đã nung nấu mối hận thù. Anh không còn
coi em mình là huyết nhục, mà như người dưng, thậm chí như
kẻ thù. Vì thế, việc người em trở về làm cho anh thấy khó
chịu.
Thiên Chúa là Cha của người tốt cũng như của người xấu. Ngài
xót thương và không giáng phạt dân Do Thái phản nghịch (Bài
đọc I). Vòng tay của Ngài vừa giang rộng đón người con thứ,
vừa choàng lên vai của người con cả để anh cảm nhận được
lòng xót thương. Ngài không muốn loại trừ ai, bất kể người
đó như thế nào. Nước mắt của người cha nhỏ xuống khi người
con thứ ra đi. Dòng lệ ấy cũng tuôn chảy khi người con cả
bất bao dung với em mình. Trước khi trở lại, Phaolô là người
hăng say tìm giết các Kitô hữu. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trên
đường đi Damas đã biến đổi cuộc đời của ông Phaolô là chứng
nhân của lòng Chúa thương xót (Bài đọc II). Ước chi mỗi
chúng ta cũng hãy trở nên chứng nhân của lòng Chúa thương
xót, để rồi, “nơi đâu có cộng đoàn tín hữu, là ở nơi đó có
thành trì của lòng xót thương” (Đức Thánh Cha Phanxicô). |
|