|
Cách đây vài ngày, ngày 25-6-2019, báo chí đưa tin và hình
ảnh Camera ghi lại một chiếc taxi hãng Vinasun tông xe vào
một đôi nam nữ đang chạy xe gắn máy trên đường tại Sàigòn
khiến hai người bất tỉnh. Người tài xế dừng xe, bước xuống
quan sát và khi không thấy ai ngoài hai nạn nhân, anh ta
lạnh lùng lên xe và tẩu thoát. Ngày 8-7-2019, một thông tin
khác cho hay tại Gia Lâm (Hà Nội) một chiếc xe hơi đã tông
thẳng vào người phụ nữ lao công đang làm việc, khiến chị bị
văng bên lề đường và tử vong. Người tài xế “máu lạnh” này
cũng bỏ chạy, để mặc nạn nhân. Những thông tin này cho thấy
con người càng ngày càng vô trách nhiệm và vô cảm đối với
tha nhân, nhất là đối với những nạn nhân do chính họ gây
nên.
Truyền thống văn hoá Việt Nam của chúng ta có biết bao lời
giáo huấn về tình liên đới, ca ngợi những nét đẹp thể hiện
qua sự đùm bọc cứu giúp lẫn nhau: “Lá lành đùm lá rách”,
“Bầu ơi thương lấy bí cùng...”, “Một con ngựa đau cả tàu
không ăn cỏ”. Trong thời buổi hiện đại này, những nét đẹp
truyền thống ấy có nguy cơ bị quên lãng do sự ích kỷ của con
người.
Đối với một số tín hữu Công giáo, việc đón nhận giáo huấn
của Chúa và của Giáo Hội chỉ dừng lại ở lý thuyết và không
có thực hành. Đó là lý do tại sao vẫn tồn tại những tranh
chấp nơi các cộng đoàn. Đây đó vẫn có những người nhận mình
là Kitô hữu mà sống ngược lại với giáo huấn của Chúa. Người
tín hữu đích thực là người lắng nghe và thực hành Lời Chúa,
để rồi Lời Chúa là kim chỉ nam hướng dẫn và soi rọi mọi hành
vi cử chỉ và lời nói của mình. Thiếu thực hành, đời sống đức
tin có nguy cơ biến thành một truyền thống văn hoá hoặc
những chỉ dẫn luân lý thuần tuý trần gian. Đó là điểm nhấn
trong giáo huấn của Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa không chỉ là Đấng ngự trên chín tầng cao xanh.
Tác giả Đệ nhị Luật đã khẳng định điều đó. Xuyên suốt lịch
sử dân Do Thái, Thiên Chúa luôn phù trợ đồng hành và che
chở. Ngài đã mặc khải cho ông Môisen: “Ta là Thiên Chúa của
Abraham, của Isaac và của Giacóp. Điều này có nghĩa, Ngài là
Thiên Chúa gần gũi với con người và luôn cứu giúp con người.
Vì vậy, luật của Chúa cũng không phải điều gì xa xôi, mà gần
gũi với con người, để rồi ai cũng có thể thực hành được, tùy
hợp với khả năng và bậc sống của mình.
Nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa được trình bày như một Đấng
che chở đồng hành với Dân được tuyển lựa, thì đến thời của
Tân ước, Chúa sai Con của Ngài nhập thể để ở cùng nhân loại,
đồng cam cộng khổ với con người, để chia sẻ kiếp sống nhân
sinh đầy thử thách gian nan và đau khổ. Qua Đức Giêsu Kitô,
Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Đấng vĩnh cửu đã
bước vào thời gian. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Giêsu
là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Điều đó có nghĩa, nếu
con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa, thì họ có thể gặp
ngài qua Người Con, là Ngôi Lời nhập thể (Bài đọc II). Người
Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu. Người
đã cứu vớt và chữa lành cả nhân loại đã bị tổn thương do tội
lỗi. Người đã mang lấy nỗi đau và bệnh tật của con người, để
cho họ được hạnh phúc và bình an. Kitô giáo là Đạo nhập thể,
là tôn giáo khẳng định “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa
chúng ta”.
Nếu Thiên Chúa đã cúi mình xuống để cưu mang và cứu độ con
người, thì con người lại dửng dưng đối với nhau. Trong dụ
ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”, Chúa Giêsu đã nhắc tới hai
người được đào tạo và có chức vị trong Do Thái giáo, đó là
một tư tế và một trợ tế. Họ là những người “cầm cân nẩy mực”
để đánh giá và duy trì những chuẩn mực luân lý và mức độ đạo
đức của người dân. Khi thấy người bị nạn, bầm dập vết thương
và bị bỏ rơi nửa sống nửa chết bên vệ đường, hai người này
đã dửng dưng bỏ đi. Họ được giáo dục về lòng yêu mến tha
nhân, nhưng lòng yêu mến đó chỉ dừng lại ở sách vở và lý
thuyết, còn những con người đau khổ cụ thể thì họ lại bỏ
qua. Trong khi đó, người Samaritanô, một người “dân ngoại”
và vô danh, lại mang một trái tim nhân hậu. Những chi tiết
được nhắc tới trong dụ ngôn cho thấy anh là một người chu
đáo tận tâm. Anh chấp nhận những hệ luỵ và mọi tốn kém để
cứu giúp người bị nạn. Anh còn chu đáo dặn người chủ quán:
“Nhờ anh chăm sóc giúp người này, tốn phí bao nhiêu, tôi sẽ
thanh toán khi trở về”. Anh đã coi người bị nạn như người
thân cận của mình, và hơn nữa, như chính bản thân mình vậy.
Lời Chúa hôm nay vừa dạy chúng ta cảm thương cứu giúp những
người bị nạn, vừa thay đổi những thành kiến về những người
xung quanh. Như đã nói ở trên, trong quan niệm của người Do
Thái nói chung thời bấy giờ, những người Samaritanô là người
bị coi thường và đáng khinh bỉ. Đây là những hệ luỵ vừa mang
tính lịch sử vừa mang tính tôn giáo. Khi diễn tả người
Samaritanô cảm thương cứu giúp người bị nạn, Chúa Giêsu muốn
lên án sự kỳ thị chia rẽ và phân biệt. Đừng coi thường những
người không cùng chủng tộc và tôn giáo với mình, vì họ mang
trái tim nhân hậu, trong khi những người xưng mình là công
chính chưa chắc đã tốt như họ.
“Lạy Thày, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Chúa
Giêsu đã trả lời bằng cả một câu chuyện đong đầy ý nghĩa sâu
sắc. Người Samaritanô vốn bị khinh bỉ coi thường, bỗng trở
thành mẫu gương cho mọi người: “Hãy đi và làm như vậy!”. Đây
vừa là câu trả lời dành cho người thông luật, vừa là mệnh
lệnh Chúa gửi đến chúng ta. Quả vậy, Lời Chúa không chỉ là
những lý thuyết suông, nhưng phải được thực hành cụ thể
trong đời sống. Vâng, chúng ta hãy đi vào cuộc sống. Hãy có
lòng nhân hậu đối với tha nhân. Hãy có trái tim nhân hậu và
lòng nhân từ như Cha trên trời. |
|