I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG:
Lc 4,21-30
(21) Đức Giê-su bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi
người đều tán thành và thán phục những lời hay ý
đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này
không phài là con ông Giu-se đó sao?”.(23) Người bảo
với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục
ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những
gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào! (24)
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn
sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (25)
“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa
ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời
hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói
kém dữ dội. (26) Thế mà ông không được sai đến giúp
một bà nào cả. Nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa
thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì
người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn
sứ Ê-li-sa. Nhưng không người nào được sạch, mà chỉ
có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy,
mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng
dậy, lôi Người ra khỏi thành (thành này được xây trên
núi). Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người
xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng
hương Na-da-rét không tin và bách hại: vì họ đã không
được Người làm phép lạ để chứng minh vai trò Thiên
Sai của Người trong khi Người lại đòi họ phải có
đức tin như điều kiện để Người làm phép lạ. Người
trưng dẫn hai nhân vật thời xưa là bà góa nghèo ở
Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở Sy-ri-a thời
Ê-li-sa đã nhận được phép lạ nhờ đức tin. Do không
được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ
thái độ thán phục ban đầu sang tức giận muốn giết
hại Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + “Hôm nay
đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”: Đức
Giê-su trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở
thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng
hồng ân cứu độ ấy không dành riêng cho dân Ít-ra-en
mà cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh
đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm
nay” (x. Lc 2,11). +
“Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” : Khi
ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên hạ vẫn
cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).
- C
23-24: + “Thầy lang ơi,
hãy chữa lấy chính mình!” : Đức Giê-su
đã dùng câu tục ngữ này để diễn tả ý muốn của
các người đồng hương Na-da-rét, đòi Người phải làm
phép lạ để ưu tiên phục vụ đồng hương, giống như
Người đã từng làm ở các nơi. +
Ca-phác-na-um: là một thành phố nằm về
hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt
động của Đức Giê-su. Tại đây, Đức Giê-su đã chữa
lành nhiều bệnh nhân và thực thi nhiều phép lạ (x.
Mc 1,21-28): tha tội trước khi chữa người bại liệt (x.
Mc 2,1-12), quan tâm đến người tội lỗi (x. Mc 2,15-17),
khoan dung trong việc giữ luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc
2,18-27). +
“Ông cũng hãy làm
tại đây, tại quê hương ông xem nào!” : Dân
làng Na-da-rét muốn thử thách Người giống như Xa-tan
đã làm. Họ muốn lợi dụng Đức Giê-su để phục vụ cho
ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng đã
thấu hiểu nguồn gốc của Đức Giê-su, nên họ không tin
Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi
Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên
Sai của Người (x. Lc 11,16). +
“Không một Ngôn sứ
nào được chấp nhận tại quê hương mình”: Ngôn
sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an
ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo một
tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân Do thái
trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15);
Cáo trách tội của các vua quan và dân chúng như ngôn
sứ Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23),
Ngôn sứ Na-than đã cáo trách tội “giết chồng đoạt
vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Simon 12,1-15), Ngôn sứ
Giê-rê-mi-a đã lên án dân chúng thờ tà thần (x. Gr
7,30-34)... Chính do “Trung ngôn nghịch nhĩ” và “Lời
thật khó nghe” mà nhiều vị ngôn sứ đã bị người
đương thời thù ghét giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không
một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình”
tương tự câu “Bụt nhà không thiêng” của người Việt
chúng ta.
- C
25-27: + Tôi nói cho
các ông hay: Đức Giê-su muốn trình bày
tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là ơn ấy được
dành cho mọi dân mọi nước, chứ không dành riêng cho
dân Ít-ra-en hay cho dân làng Na-da-rét. Trong thời gian
giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường đề cao đức tin của
các người dân ngoại như: khen viên đại đội trưởng
người Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy môn đệ noi gương bác ái
của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà
xứ Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a
và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta vượt qua cơn
đói kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi
tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên.
Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị
chết đói do trời hạn hán mất mùa. Nhờ tin và làm
theo lời Ê-li-a dạy mà bà này đã được hưởng phép
lạ làm cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho
tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa
và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ngôn
sứÊ-li-sa là đồ đệ của ngôn sứ Ê-li-a, rất nổi
tiếng vì có khả năng chữa bệnh cách lạ lùng. Tại
xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan tên là Na-a-man bị mắc
bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông
đã sang nước Ít-ra-en tìm đến xin ngôn sứ Ê-li-sa
chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và
khiêm tốn vâng lời dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần nên
ông đã được phép lạ khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C
28-30: + Mọi người
trong hội đường đầy phẫn nộ: Họ phẫn
nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn đòi hỏi muốn
được xem Người làm phép lạ. Họ còn tức giận vì
Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức
Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành
phố Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương là làng
Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ
bị người ta chống đối, mà ông Si-mê-on đã tiên báo
(x. Lc 2,34). Cuối cùng Người còn bị kết án chịu
chết trên cây thập giá nữa (x. Lc 20,15). +
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi: Trước
sự chống đối của dân làng Na-da-rét, Đức Giê-su đã
vượt qua giữa họ mà đi trên đường của Người, là
đường kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).
4. CÂU HỎI:
1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su
được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con
của ai? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và
có sứ vụ gì? 3) Tại sao dân làng Na-da-rét đòi Đức
Giê-su làm phép lạ cho họ xem và họ đă phản ứng thế
nào khi không được thỏa mãn? 4) Hãy kể ra một số
trường hợp Đức Giê-su coi trọng dân ngoại hơn dân Do
thái? 5) Khi nêu ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và
Ê-li-sa đã làm cho hai người đàn bà thuộc dân ngoại,
Đức Giê-su muốn dạy điều gì với người đồng hương
Na-da-rét? 6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận muốn
giết chết Đức Giê-su?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hôm nay đă ứng nghiệm lời Kinh Thánh quư vị
vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỜI NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM:
GEORGE HERBERT vừa là một Linh mục, lại cũng là một thi
sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm trên đường đến tham dự
một cuộc ḥa nhạc th́ gặp một người bị té ngựa nằm trên
vũng bùn, ông lập tức dừng xe lại, rồi cởi áo ḍng ra,
xắn tay áo để đỡ người bị té kia lên mình ngựa và còn
giúp đưa hành lư của người ấy lên lưng ngựa. Xong mọi
chuyện, ông mới tiếp tục đi đến pḥng ḥa nhạc với bộ
quấn áo nhếch nhác lấm bùn.
B́nh thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay thấy tay
chân và quần áo ông đều dính đầy bùn bẩn, nên bạn bè rất
ngạc nhiên. Khi nghe ông kể lại chuyện ḿnh đă làm dọc đường
th́ một trong các người bạn không đồng ư v́ cho rằng việc đó
không phải là trách nhiệm của ông và ông không cần phải
làm như vậy. George Herbert đă trả lời như sau: “Tôi
thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Nhưng mãi đến
hôm nay tôi mới có dịp giúp đỡ họ. Nếu khi nãy không ra
tay trợ giúp th́ tôi đã không làm theo lời ḿnh cầu
nguyện, giống như cây đàn chưa được lên dây cho đúng cung
vậy”.
Cần tránh thái độ giả đạo đức của bọn biệt phái
đã bị Chúa Giê-su cáo trách: “Các kinh sư và các người
Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả
những ǵ họ nói, anh em hăy làm, hăy giữ, c̣n những việc họ
làm, th́ đừng có làm theo, v́ họ nói mà không làm” (Mt
23,2-3).
Thánh Giacôbê thì nói: “Đức tin mà không có việc làm là đức
tin chết”. Việc bác ái là cách biểu lộ đức tin rõ nét
nhất. Thánh Phao-lô tông đồ cũng dạy về giá trị của
lòng mến: “Đức Mến đích thực th́ không ghen tương, không
vênh vang, không tự đắc”“...Giả như tôi có đem hết gia tài
cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu
đốt, mà không có đức mến, th́ cũng chẳng ích ǵ cho tôi”.
2)SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT.
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua
Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan
chức triều đình đến tư dinh để bàn mưu tính kế và
uống máu ăn thề. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên
bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có
mặt đều tỏ ra khiếp sợ trước uy thế của Thôi Trữ
và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm
nhiên tự tại và không mở miệng thề hứa chi cả. Bấy
giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi theo ta, thì
sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một
nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập
tức bị giết!”. Trước khí thế của quân phản loạn,
Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời: “Lấy cái
lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là
bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm cho lòng
người sợ hãi phải nghe theo mình là thất đức. Giết
thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung
thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy
ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra
lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đă đe
trước đó.
Câu chuyện trên cho thấy những lời nói đúng đắn cũng
có sức mạnh chống lại được với những kẻ gian ác.
Những lời đó mang tính tiên tri mà mỗi tín hữu
chúng ta đều có thể thực hiện được trong cuộc sống
hằng ngày,
3) CẦN KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI NOI GƯƠNG SA-MU-EN (x.II Sm
12,1-13):
Sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại t́nh với nàng Bát-se-va vợ
của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ lệnh cho đại tướng
Gio-áp mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng
tài này, ngôn sứ Na-than đă được Đức Chúa sai đến cáo
trách tội ác vừa ngoại tình lại vừa “giết chồng đoạt
vợ” của vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đă vào đền vua và đã
trình lên một câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10
ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân đến nhà anh nông dân
nghèo chỉ có một con chiên cái duy nhất mà anh rất mực
thương yêu, rồi bắt con chiên ấy về làm thịt để đăi bạn
bè đến chơi. Vua Đa-vít sau khi nghe kể về hành động thất
nhân ác đức của tên phú hộ đã tỏ thái độ tức giận với
tên phú hộ, bấy giờ Na-than mới nói: “Tên phú hộ gian
ác ấy chính là đức vua. Vua đă phạm tội ngoại t́nh với
nàng Bát-se-va rồi c̣n giết chồng là tướng U-ri-gia để đoạt
vợ của ông ta”. Nhờ cách cáo tội khôn ngoan này mà Vua
Đa-vít đă nhận ra tội lỗi to lớn của ḿnh và đã hồi tâm
sám hối.
4) ĐỪNG COI THƯỜNG NHỮNG HỒNG ÂN HIỆN TẠI CỦA CHÚA:
Có một nhà hiền triết nọ chuyên làm cố vấn giúp đỡ những
ai buồn phiền chán nản. Bất cứ ai đến xin cũng đều được
nhà hiền triết cho lời khuyên hữu ích.
Một hôm, một người chủ xưởng may đến xin nhà hiền triết
giúp giải quyết khó khăn gặp phải trong gia đình. Gia
đ́nh ông gồm 9 người: hai vợ chồng và 7 đứa con trai
nhỏ. Họ sống chen chúc nhau trong một căn chòi nóng bức
chật chội. Do không có chỗ chơi nên lũ trẻ rủ nhau
vào vui đùa trong xưởng may tương đối rộng rãi. Bà
mẹ luôn miệng la hét lũ trẻ để giữ trật tự. Còn
ông chủ phần lo sản xuất quần áo, phần bị lũ con la
hét quậy phá nên tâm trí không lúc nào được thanh
thản.
Nghe hoàn cảnh của gia đình ông chủ xưởng may, nhà
hiền triết liền cho lời khuyên như sau:
- Ông hăy ra chợ mua một con dê đực và mang về cột nó
trong xưởng may để lũ trẻ hết chỗ quậy phá.
Tuy không hiểu hết lý do, nhưng ông chủ xưởng may vốn
tin vào khả năng của nhà hiền triết, nên vâng lời ra
chợ mua về một con dê đực và cột nó vào góc xưởng
may khiến lũ trẻ không còn chỗ vui chơi quậy phá.
Nhưng bây giờ lại đến lượt con dê đực. Không những nó
phóng uế bừa bãi bốc mùi hôi thối trong xưởng may, mà
miệng nó không ngừng kêu “be be...” khiến ai nấy đều
cảm thấy rất khó chịu!
Mấy hôm sau, ông chủ xưởng may lại đến than phiền về sự
quậy phá của con dê với nhà hiền triết và lần này ông
lại cho lời khuyên:
- Ông hăy về nhà và mau mang con dê ra chợ bán đi cho
người khác.
Nghe vậy, ông chủ xưởng may cảm thấy vui như vừa được
giải thoát khỏi gánh nặng. Ông vội về dắt con dê ra
chợ bán, đang lúc bà vợ cùng gia nhân làm tổng vệ
sinh để tẩy uế nhà xưởng. Bảy đứa nhóc sau khi thấy
xưởng may sạch sẽ, lại rủ nhau vào trong xưởng vui
đùa la hét như trước. Có điều bây giờ tiếng la hét
của chúng không còn làm ông bố khó chịu. Ông tự nhủ:
dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng dễ chịu hơn
nhiều so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn đáng ghét
kia... Và từ ngày đó gia đình ông chủ xưởng may lại
được yên vui hạnh phúc như trước.
3. THẢO LUẬN:
Trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã luôn ưu
ái và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái. Vậy noi gương
Đức Giê-su, hôm nay chúng ta nên đối xử thế nào với
anh em lương dân để giới thiệu Chúa cho họ?
4. SUY NIỆM:
1. Đức Giê-su thi hành sứ vụ Thiên Sai tại Na-da-rét và bị
đồng hương chống đối:
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại: Trong Hội đường Na-da-rét,
sau khi đọc đoạn sách của Ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ Đấng
Thiên Sai, Đức Giê-su đă tuyên bố: “Hôm nay đă ứng nghiệm
lời Kinh Thánh mà quư vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân
làng Na-da-rét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát
của Đức Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về nghề thợ mộc
thấp hèn và về gia thế tầm thường của Người, nên họ đã
không tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải
chứng mình vai trò Thiên Sai bằng việc làm phép lạ như
đã làm tại thành Ca-phác-na-um. Nhưng Người đã không làm
phép lạ nào tại đây v́ họ cứng lòng tin. Đức Giê-su cho
biết sở dĩ dân ngoại đă được hưởng phép lạ, v́ họ đă tin
và đã làm theo lời vị ngôn sứ. Rồi Đức Giê-su kết luận
chua chát: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương ḿnh”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ
v́ họ nghĩ Đức Giê-su coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái,
và khinh thường người đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên
triền núi để xô Người xuống vực, nhưng “người đă băng qua
giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Sứ vụ làm ngôn sứ của các tín hữu hôm nay:
Mỗi người chúng ta nhờ phép rửa tội và thêm sức mà được
tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su. Để chu toàn được
sứ vụ cao quư này, chúng ta cần tránh và cần làm những ǵ?
- Cần
tránh thành kiến với tha nhân: Dân làng
Na-da-rét do có thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của
Đức Giê-su, nên đă không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người.
Thành kiến là một thói xấu mà ai trong chúng ta ít nhiều
cũng mắc phải: Cùng một lời nói hay việc làm do một người có
địa vị cao hay uy tín lớn nói th́ được mọi người coi
trọng, đang khi nếu lời nói đó do một người b́nh thường
thì sẽ bị mọi người coi thường.
- Cần
tránh thái độ ích kỷ cục bộ: Qua câu chuyện hũ
bột tại nhà bà góa nghèo thời Ê-li-a không bị cạn, và bệnh
cùi của viên quan ngoại giáo Na-a-man thời Ê-li-sa được
khỏi bệnh cách lạ thường, Đức Giê-su cho thấy hết mọi dân
tộc đều được Chúa ban ơn cứu độ chứ không dành riêng cho
dân Do thái, miễn là họ phải có ḷng tin, thể hiện qua việc
thực hành Lời Chúa. Đức Giê-su muốn chúng ta hôm nay không
đóng khung các hoạt động truyền giáo hay việc chia sẻ bác
ái trong phạm vi hạn hẹp, mà phải sẵn sàng mở rộng t́nh
thương cho mọi người.
- Cần
nói lời Chúa cách trung thực: Làm ngôn sứ
không dễ, v́ phải nói lời Chúa cách trung thực, dù sự thật
thường hay mất ḷng. Nhưng đă là ngôn sứ th́ chúng ta phải
trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả là
có thể bị kẻ gian ác thù ghét bách hại.
- Cần
dũng cảm bênh vực công lư: Làm ngôn sứ đôi khi
cũng phải lội ngược ḍng. Chúng ta cần tránh nghe theo dư
luận xấu, cũng không hùa theo số đông lầm lạc, mà phải
ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy. Điều này đ̣i ta phải
dũng cảm đứng về phía sự thật và còn phải khôn ngoan để
giữ ḥa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn
ngoan dám bênh vực công lư này sẽ giúp người đời nhận biết
tôn thờ Thiên Chúa như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em
phải chiếu giăi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng
ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Phải thi hành sứ vụ Ngôn sứ thế nào?
- Sứ vụ ngôn sứ không dễ
thực hiện: Để nói Lời Chúa cách hữu hiệu
cho người có lỗi, chúng ta cần sửa lỗi cách khôn ngoan,
theo cách ngôn sứ Na-than sửa lỗi vua Đa-vít (x. II Sm
12,1-13).
- Cần
sửa lỗi tha nhân như thế nào?: Ngày nay, để
việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta cần theo các bước như
sau:
Nhờ ơn Chúa giúp trước khi sửa lỗi “V́ không có Thầy, anh
em chẳng làm ǵ được” (Ga 15,8).
Cần tạo uy tín trước khi sửa lỗi, là phải tự sửa lỗi ḿnh
trước để tránh t́nh trạng: “Chân ḿnh những lấm bê bê, lại
cầm bó đuốc mà rê chân người”.
Cần sửa lỗi do động lực tình thương chứ không do sự thù
ghét.
Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường”, “khen trước
chê sau”, “khen nhiều chê ít”.
Cần sửa lỗi từng bước: Một là chỉ nói riêng một ḿnh với kẻ
có lỗi; Hai là mang theo một hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có
lỗi cố chấp ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân
ngoại và phó thác họ cho ḷng từ bi thương xót của Thiên
Chúa (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con chu toàn sứ vụ rao giảng
Lời Chúa trong xă hội hôm nay. Để chu toàn sứ vụ ngôn sứ,
xin cho chúng con biết chuyên cần học sống Lời Chúa tại
nhà thờ, đọc câu Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đ́nh hằng
ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho “Sự Thật” (x Ga
14,6) bằng lối ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ những
người đau khổ bất hạnh. Xin cho chúng con luôn tin vào sức
mạnh của sự thật vì: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga
8,32).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. |