|
1. Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu xin là dấu hiệu đầu tiên
của sự nối tiếp mạc khải sống động của Ngài qua mọi thời
đại, là dấu hiệu của sự tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp
của mỗi thế hệ tín hữu với Chúa và Thiên Chúa Cha: “Con
trong chúng và Cha trong Con để chúng cũng ở trong chúng
ta”. Sự liên tục này là phản ảnh sự hiệp nhất nối kết Cha và
Con (10,38; 4,10-11). Con chỉ là Con bao lâu c̣n tiếp xúc
với Cha; cũng thế Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi, như
các tông đồ, họ trực tiếp gặp gỡ thực tại của Đức Kitô trong
lời rao giảng đức tin (1Ga 1,1-3). Họ chưa biết Kitô giáo là
ǵ nếu chỉ biết Đức Kitô nhờ nghe nói lại, biết Ngài sống
chết bao lâu, mà không bao giờ đối diện với Đức Kitô hằng
sống.
Mối dây hiệp nhất đang nối kết trực tiếp mỗi một thế hệ tín
hữu với Đức Kitô và Cha nhờ việc rao giảng đức tin được diễn
tả ra bên ngoài bằng sự hiệp nhất giữa các tín hữu và bằng
sự ḥa điệu của một cơ thể sống động đang qui tụ họ lại.
Càng xa dần biến cố lịch sử Đức Kitô, càng phải sợ rằng,
những yếu tố ngoại lai sẽ len lỏi vào trong Giáo hội và làm
mất đi sự mới mẻ ban đầu. Trước đây là vấn đề hiệp nhất
trong giáo thuyết, nhưng cũng là vấn đề t́nh huynh đệ Kitô
hữu, v́ đó là qui luật đời sống Kitô giáo. Khi thánh Gioan
viết thư nhắc lại giáo huấn mà các tín hữu Ngài đă nghe từ
ban đầu (1Ga 2,7.24; 3,11; 2Ga 5-6), Ngài cũng khuyên nhủ họ
sống yêu thương nhau và trung thành với giáo thuyết. Từ đó
người ta hiểu rằng trái tim của vị tông đồ đầu tiên đă se
thắt lại khi, vào cuối thế kỷ thứ nhất, Ngài linh cảm là
Kitô giáo sẽ không c̣n hiệp nhất.
Trong sợi dây lưu truyền sứ điệp cứu độ của một Thiên Chúa
t́nh yêu, th́ ṿng xích nào cũng đáng kể cả: Cha - Con - các
tông đồ, mỗi một tín hữu, mỗi một thời đại. Triều thiên là
ḷng khoan hậu của Thiên Chúa kết nên chỉ mong trở thành một
(1Ga 2,5; 4,12.17). Cộng đoàn Kitô hữu, qua mọi thời đại,
hoàn toàn chỉ là một đại gia đ́nh uống cùng một nguồn suối
sự sống, nguồn suối của Đức Kitô; trong Ngài tỏ lộ ra nguồn
mạch đầu tiên của tất cả sự sống: Thiên Chúa Cha.
Sự tiếp nối nguồn sinh lực này, biểu lộ ra trong sự tiếp nối
tinh tuyền học thuyết và củng cố trong t́nh huynh đệ, là một
luận cứ đáng kể để thuyết phục thế gian. Sự vững chắc của
một đầu đủ gây ấn tượng cho một thế giới cần phải chinh
phục, dĩ nhiên không phải là một ấn tượng sợ hăi mà là một
ấn tượng tốt đẹp và lôi cuốn. V́ sự bền vững trong đức tin
tinh tuyền và duy nhất của cộng đoàn qua mọi thời đại đủ
biện minh cho đấng sáng lập. Ngài đă không thể đạt được hiệu
quả ấy nhờ quyền lực nhân loại của Ngài, nhưng chỉ đạt được
nếu sứ mạng của Ngài bắt nguồn từ một thế giới siêu nhiên -
thần linh. Như vậy sẽ không ǵ có thể biện minh cho việc thế
gian từ chối tin rằng Chúa Cha đă thật sự sai Chúa Kitô và
từ chối tin rằng đến lượt Ngài, Ngài đă uỷ nhiệm cho các
nhân chứng công bố cho mọi người t́nh yêu mà Cha đă tỏ ra
trong Ngài.
2. Sự hiệp nhất giữa các tín hữu trực tiếp phát xuất từ việc
đồng tham dự vào vinh quang Đức Kitô. Ngay từ lúc nhập thể,
nhưng nhất là trong sự sung măn hoàn toàn khi thăng thiên,
nhân tính của Chúa Giêsu nhờ thần tính phong phú, đă được
tràn ngập vinh quang Thiên Chúa. Khi hiệp nhất với Ngài nhờ
đức tin, các môn đệ được thông ban vinh quang đó; mỗi một
người tùy theo mức độ, thông vào bản tính của Thiên Chúa khi
sinh bởi Thiên Chúa nhờ thánh linh (1,14; 3,6; 2P 1,4). Dù
chia sẻ vinh quang và mọi của cải thần thiêng của Ngài, họ
vẫn làm nên một thân thể với và trong Ngài mà thôi: “Chỉ có
một thân ḿnh và một thần khí, cũng như chỉ có một Thiên
Chúa, một đức tin, một phép rửa... Tuy nhiên mỗi người chúng
ta đă được ân sủng ban xuống tùy theo lượng ân lộc của Đức
Kitô” (Ep 4,4-7)
Như thế, nhờ việc Đức Kitô ở trong các môn đệ như nguyên lư
tác động sự sống thần linh và đàng khác nhờ việc Cha ở trong
Con như nguyên lư sự sống và nguyên lư hành động của Ngài,
tất cả chỉ làm thành một: “Con trong chúng và Cha trong Con
để chúng hoàn toàn nên một”. Ở giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và
Giáo hội có một sự hiệp nhất thiêng liêng rất khắng khít:
“Điều mà chúng tôi đă từng thấy và đă từng nghe, th́ chúng
tôi loan báo cho anh em nữa... để anh em được thông hiệp với
chúng tôi (nhờ đức tin); nhưng sự thông hiệp của chúng ta,
là thông hiệp với Cha và với Con của Người, Chúa Giêsu Kitô”
(1Ga 1,3)
3. Sau khi nh́n đến các tín hữu đang sống trong thế gian,
Chúa Giêsu nghĩ đến t́nh cảnh của họ trong tương lai. Đối
với Ngài, nay đă đến lúc trở về cùng Cha (14,28), trong vinh
quang mà Cha đă ban cho Ngài từ lúc sinh ra trong vĩnh cửu,
trong vinh quang mà nhân tính Ngài sắp được liên kết cùng.
Đó là điều Cha đă quyết định trong t́nh yêu dành cho Chúa
Con khi, trong vĩnh cửu, Ngài đă ra lệnh cho Con Ngài nhập
thể. Những kẻ Cha đă ban cho Chúa Giêsu là toàn thể các tín
hữu xét như một khối. Đó là kỷ phần của Đức Kitô. Ngài đă
nhận kỷ phần đó từ Cha và đă chấp nhận nó. Kỷ phần đó thuộc
về Ngài và Ngài đă tỏ ra sẵn sàng nói lên sự chấp nhận bằng
ḍng máu đổ ra. Quyền lợi của Ngài, như thế, liên kết với
quyền lợi của chúng ta. Do đó Ngài đ̣i hỏi với một uy quyền
khiến ta ngạc nhiên v́ nằm trong một lời cầu nguyện. Con
muốn diễn tả một hành vi ư chí, chứ không chỉ là một ước
muốn đơn thuần. Chắc chắn, Chúa Giêsu bao giờ cũng chỉ muốn
điều Cha muốn (4,34; 5,30; 6,38-40). Nhưng trên điểm này, ư
muốn nhân loại của Ngài hoàn toàn trùng hợp với ư muốn của
Cha, nên Ngài đă nói cách cương quyết. Chúng ta thấy Ngài
tha thiết với chúng ta dường nào. Điều Ngài muốn bây giờ là
chúng ta được kết hợp với sự sống vinh hiển của Ngài. Có thể
nói vinh quang và niềm vui của Ngài sẽ không trọn vẹn nếu
không có điều đó. Đức Kitô mạc khải t́nh yêu Ngài đối với
chúng ta cách tuyệt hảo. Con người hăy dừng bước để hồi tâm
đón nhận và suy niệm trong ḷng những lời nói chưa chan lời
âu yếm đó.
4. Sau khi nh́n đến số phận tại thế của các môn đệ, vị tôn
sư cầu xin cho họ ơn một ngày kia được đi theo Ngài về trời,
ở bên Chúa Cha. Ngài đă nói với họ trước khi chịu nạn: họ sẽ
theo Ngài lên trời v́ Ngài đi dọn chỗ và sẽ trở lại đưa họ
theo với Ngài (13,37; 14,2-3). Lúc này, Đức Kitô tỏ cho Chúa
Cha thấy ư muốn cương quyết có họ gần bên Ngài. Và đó cũng
là chính ư muốn của Cha, Đấng đă uỷ thác họ cho Ngài với sứ
mạng bảo vệ họ khỏi hư mất ở đời này cũng như đời sau: “Này
đây ư của Đấng đă sai Ta: phàm sự ǵ Người đă ban cho ta,
th́ Ta không được để hư đi điều ǵ, song ngày sau hết ta sẽ
cho nó sống lại” (6,39).
Chính khi cho họ sống lại là Chúa Giêsu dứt khoát đem họ
theo ở bên Ngài, cho họ thấy vinh quang thần linh sắp hội
nhập và biến đổi nhân tính Ngài trên trời. Ngay lúc c̣n tại
thế, vinh quang này đă nhiệm mầu chiếu sáng trong các công
việc, cử chỉ và toàn thể con người của Ngài, đến nỗi các môn
đệ đă có thể chiêm ngắm vinh quang đó nhờ ánh sáng đức tin
(1,14; 2,11). Bây giờ khi Ngài phục sinh, vinh quang đó
chiếu sáng mănh liệt hơn, và họ thấy cách rơ ràng hơn. Trên
trời, nhân tính của Ngài sẽ tiếp nhận cách sung măn vinh
quang mà Cha đă v́ yêu mà ban cho Ngài lúc tiền hữu, trước
khi tạo dựng vũ trụ. Như một tấm gương không vết nhơ hay như
một tấm màn trong suốt, nhân tính Ngài sẽ phản chiếu và tràn
ngập vinh quang này một cách hoàn hảo đến độ thấm nhuần và
được biến đổi nhờ vinh quang đó. Khi chiêm ngưỡng vinh quang
này, những người được chọn sẽ vui mừng phấn khởi, sung sướng
hạnh phúc, như lời Chúa Giêsu: “Ta sẽ gặp lại các con và
ḷng các con sẽ vui mừng, và sự mừng vui của các con không
ai lấy mất được” (16,22)
Như Đức Kitô vinh hiển sẽ là h́nh ảnh hoàn hảo của Cha và sự
chiếu sáng huy hoàng của vinh quang Ngài (Col 1,15; Dt 1,3),
th́ chính Chúa Cha vinh hiển mà các môn đệ sẽ chiêm ngưỡng
trong tấm gương Con Ngài; chính lúc đó ứng nghiệm lời Chúa
Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha...Ta ở trong Cha và Cha ở
trong Ta” (14,9-10).
Theo thánh Phaolô, khi chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Kitô
nhờ đức tin, các tín hữu đă nhận lănh một phần vinh quang
này: “C̣n chúng ta hết thảy, không màn che mặt, ta ngắm, như
dọi lại trong gương, vinh quang của Chúa; và nhờ cũng một
h́nh ảnh ấy, ta được biến h́nh đổi dạng từ vinh quang này
đến vinh quang khác” (1Co 3,18). Sự trực tiếp chiêm ngưỡng
Đức Kitô vinh hiển sẽ làm cho họ được vinh quang.
5. Cuối lời nguyện, Đức Kitô bày tỏ lư do khiến lời cầu
nguyện sẽ đáng được nhậm: Chúa Giêsu đă ngỏ lời với cha Ngài
bằng cách gọi Người là Cha chí công. Ngài đă tôn vinh Cha
bằng cách tỏ danh Cha (c.4), và việc Ngài đă bắt đầu, Ngài
sẽ tiếp tục trong tương lai, bằng cách dẫn con người đến đức
tin. Đă có và sẽ có những sự chống đối. Thế gian đă từ chối
không nhận biết Cha ở trong Con, Đấng đă được sai đến với
họ. Nhưng những người mà Đức Kitô vừa cầu nguyện cho đă cư
xử cách khác. Họ đă rộng ḷng đón chân lư, v́ thế Đức Kitô
làm cho họ nhận biết rằng chính Cha đă sai Ngài, để t́nh yêu
của Cha ở trong họ, sống và hành động như trong chính Ngài
(v́ họ thuộc về Ngài); và nhờ đó, Ngài được yêu mến bởi họ
và trong họ. Nếu đó là thái độ tâm hồn của các tín hữu bán
chặt vào Đức Kitô, và nếu đó là ư muốn của Đức Kitô suốt
cuộc đời của Ngài th́ việc Chúa Cha nhậm lời Con Ngài là một
điều chính đáng, khi Chúa Con cầu xin Ngài hiệp nhất mọi tín
hữu trong t́nh bác ái.
6. Lúc sắp ĺa trần, vị Tôn sư tổng kết thành quả cuộc đời
trần thế của Ngài. Dù ngài đă hết sức cố gắng minh chứng và
mạc khải cha, thế gian đă không biết, đă không muốn biết
Thiên Chúa với nhận thức đầy t́nh yêu và vâng phục đức tin,
như lời của Đức Kitô nói với người Do thái: “Đấng mà các
ngươi xưng rằng: Người là Thiên Chúa của chúng tôi, vậy mà
các ngươi lại không biết” (8,55). Trái lại, chính Ngài đă
nhận biết Người nhờ trí óc và con tim; Ngài không ngừng sống
sự hiểu biết này: “Ta biết Cha và Ta giữ lời của Người”,
Chúa Giêsu quả quyết với người Do thái như thế (8,55).
Trái với thế gian, các môn đệ đă nhận biết và thừa nhận rằng
Thầy của họ đến từ Thiên Chúa, rằng chính Chúa Cha đă sai
Ngài (17,8). Từ đó Ngài đă có thể bày tỏ Cha, mạc khải danh
Cha cho những ai mà Thiên Chúa đă đưa ra khỏi thế gian mà
ban cho Ngài: “Thiên Chúa, nào ai đă thấy bao giờ, Con Một,
ở nơi cung ḷng Cha, chính Ngài đă tỏ cho biết” (1,18). Một
khi được tôn vinh, th́ thay v́ chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ theo
đuổi nhiệm vụ đó cách mănh liệt và mầu nhiệm hơn; Ngài sẽ tỏ
Chúa Cha khi tự thân mật mạc khải và sống với Cha trong các
môn đệ. C̣n Chúa Cha sẽ yêu mến môn đệ bằng chính t́nh yêu
Người dành cho Chúa Con. Quả thật, v́ Đức Kitô và Kitô hữu ở
trong nhau, th́ chính Chúa Con mà Chúa Cha yêu mến trong
người môn đệ: “Ai yêu mến Ta th́ được Cha Ta yêu mến, và Ta
sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ ḿnh ra cho nó... Ai yêu mến ta, th́
sẽ giữ lời Ta và Cha Ta yêu mến nó và chúng ta sẽ đến cùng
nó và sẽ lập cư nơi ḿnh nó...” (14,21-23). Đó là điều làm
các môn đệ vững tâm khi sư phụ ra đi: họ sẽ tiếp tục hưởng
nhờ sự hiện diện, t́nh yêu và hoạt động mạc khải của Ngài,
cũng như t́nh yêu vô biên và thường xuyên của Cha trên trời.
KẾT
LUẬN
Đức Kitô, nhờ cái chết thập giá, đă được Chúa Cha ban cho
vinh quang. Vinh quang đó là bày tỏ cho mọi người biết Ngài
thông hiệp sâu xa với Cha. Các tín hữu cảm nhận được vinh
quang ấy th́ cũng được liên kết vào đó, và đến lượt họ, họ
sẽ tỏ bày vinh quang của Đức Kitô. Điều này được thực hiện
một cách cụ thể bằng việc họ hiệp nhất trong t́nh yêu.
Ư
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ở đầu bản văn, Chúa Giêsu quả quyết không chỉ muốn cầu
nguyện cho các môn đệ vây quanh Ngài và đang ăn tiệc ly với
Ngài. Ngài c̣n cầu nguyện “cho những ai, nhờ lời của các
tông đồ mà tin vào Ngài”. Ngài cầu nguyện cho những kẻ sau
này sẽ kế vị họ và cho những người, nhờ Lời, sẽ nhận biết
Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Lúc đó, Ngài cũng đă nghĩ đến
mỗi một người trong chúng ta hôm nay đang lắng nghe lời Ngài.
2. Trong hoàn cảnh trang nghiêm như thế này, Ngài xin điều
ǵ quan trọng? Ngài xin: “Chớ ǵ chúng nên một”, như thể
Ngài đoán trước có mối nguy hiểm đang chờ các tín hữu, hiểm
nguy đó là sự chia rẽ. Chúa Giêsu vắn tắt nói cho chúng ta
cái khuôn mẫu, hiệu quả và phương thế của sự hiệp nhất này,
một sự hiệp nhất phải luôn luôn t́m kiếm, nhưng không bao
giờ đạt được: “Chớ ǵ chúng cũng nên một như chúng ta”. Sự
hiệp nhất phải thể hiện giữa các tín hữu là sự hiệp nhất có
giữa Cha và Con: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Không
thể tưởng tượng được một sự ḥa hợp, một sự hiệp thông mănh
liệt hơn, hoàn hảo hơn sự thông hiệp giữa Cha và Con. Sự
hiệp nhất có giữa tín hữu nhờ lời cầu xin của Đức Kitô,
giống như sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Và Chúa Giêsu nói tiếp: “Để thế gian biết rằng Cha đă sai
con và Con đă yêu chúng như Cha đă yêu Con”. Khi lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu sẽ được chấp nhận, th́ hiệu quả đầu
tiên tỏ ra cho người ngoài biết là Chúa Giêsu yêu nhân loại
như Chúa Cha đă yêu Ngài. Một viễn cảnh được mở ra cho những
ai buồn phiền v́ thấy đức tin đă biến mất, v́ thấy Giáo hội
không c̣n được lắng nghe, cho những ai đang t́m phương thế,
những kỹ thuật thuyết phục mọi người theo Chúa; Chúa Giêsu
tỏ cho chúng ta phương thế chính Ngài đă hoàn chỉnh: đó là
Chúa Cha thực hiện ước nguyện của Ngài: “Chớ ǵ chúng nên
một”.
Sau cùng Ngài nói cho chúng ta biết điều đó sẽ thực hiện như
thế nào: “Con đă ban cho chúng vinh quang mà Cha đă ban cho
Con để chúng nên một”. V́ vinh quang này là sự thông phần
vào vinh quang Thiên Chúa vào sự sống mănh liệt phát xuất từ
Cha, cho nên phương thế hay nhất, để thực hiện sự hiệp nhất
Cha Con, là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của
Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần linh của Ngài, múc ra từ các
nhiệm tích, từ việc nghe lời Chúa, từ việc chân thành và
kiên nhẫn cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn. |
|