.
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc
10,46-52
(46) Đức Giê-su
và các môn đệ
đến thành
Giêricô. khi Đức
Giê-su cùng với
các môn đệ và
một đám người
khá đông ra khỏi
thành Giêricô,
th́ có một người
hành khất mù,
tên là Báctimê,
con ông Timê,
đang ngồi ở vệ
đường. (47) Vừa
nghe nói đó là
Đức Giê-su
Nadarét, anh ta
bắt đầu kêu lên
rằng: “Lạy ông
Giê-su, Con Vua
Đavít, xin dủ
ḷng thương
tôi!” (48) Nhiều
người quát nạt
bảo anh ta im
đi. Nhưng anh ta
càng kêu lớn
tiếng: “Lạy Con
Vua Đavít, xin
dủ ḷng thương
tôi!”. (49) Đức
Giê-su đứng lại
và nói: “Gọi anh
ta lại đây!”
Người ta gọi anh
mù và bảo: “Cứ
yên tâm đứng
dậy, Người gọi
anh đấy!” (50)
Anh mù liền vất
áo choàng lại,
đứng phắt dậy,
mà đến gần Đức
Giê-su. (51)
Người hỏi: “Anh
muốn tôi làm ǵ
cho anh?” Anh mù
đáp: “Thưa Thầy,
xin cho tôi nh́n
thấy được”. (52)
Người nói: “Anh
hăy đi, ḷng tin
của anh đă cứu
anh!” Tức khắc
anh ta nh́n thấy
được và đi theo
Người trên con
đường Người đi.
2. Ư
CHÍNH:
Trên bước đường
đi về Giêrusalem
để chịu tử nạn
và phục sinh,
th́ tại thành
Giêricô, Đức
Giê-su đă chữa
cho một người mù
tên là Báctimê,
đang ngồi ăn xin
bên vệ đường, v́
anh đă tin cậy
nơi Người. Qua
phép lạ mở mắt
người mù này,
Người muốn mở
mắt đức tin cho
các môn đệ, để
họ thấy được ư
nghĩa cao cả của
sứ mạng cứu thế
mà Người sắp
thực hiện tại
Giêrusalem là:
“Qua đau khổ
thập giá để vào
trong vinh quang
phục sinh”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 46: +
thành Giêricô: Giêricô
có nghĩa là “mặt
trăng”, một
thành ở thung
lũng sông
Gio-đan, cách
biển Chết 5 cây
số và cách
Giêrusalem
khoảng 25 cây
số. Thời Xuất
hành, Giêricô là
thành đầu tiên
mà con cháu
Gia-cóp, dưới sự
lănh đạo của
Giosuê tiến
chiếm được (x.
Gs 5,13tt). Dụ
ngôn người
Samari tốt lành
cũng nhắc đến
đoạn đường từ
Giêrusalem xuống
Giêricô (x. Lc
10,30). +
có một người
hành khất mù: Hành
khất là người ăn
xin. Đây là một
người đói khổ về
vật chất, đang
cần được giúp
đỡ. Anh ta c̣n
bị mù, tượng
trưng cho người
đang đi trong
tăm tối v́ chưa
nhận biết và tin
Đức Giê-su. Có
thể Đức Giê-su
chữa một lúc hai
người mù (x Mt
20,30), nhưng ở
đây Mác-cô chỉ
ghi lại một
người và nêu rơ
tên là Báctimê. +
ở vệ đường: đồng
nghĩa với “đầu
đường xó chợ”,
nói lên hoàn
cảnh bơ vơ không
nơi nương tựa
của ngươi mù.
anh ta tượng
trưng cho số
phận đau khổ của
“Người nghèo của
Đức Giavê”, đối
tượng được Đức
Giê-su ưu tiên
mời gia nhập vào
Nước Trời của
Người.
- C 47-48: +
Đức Giê-su
Nadarét: Giê-su
nghĩa là “Giavê
cứu độ”. trong
Thánh Kinh có
một số người
cũng tên là
Giê-su (x.Hc
50,27; Lc 3,29;
Cl 4,11). Để
phân biệt, người
ta thường thêm
tên quê hương
vào sau tên gọi.
Giê-su nói đây
chính là Đức
Giê-su quê làng
Nadarét. +
Con Vua Đavít: Anh
mù gọi Đức
Giê-su kèm tước
hiệu “Con Vua
Đavít” cho thấy
nhiều người Do
thái đă tin Đức
Giê-su là “Đấng
Thiên Sai”,
nhưng họ lại
đang mong đợi
một Đấng Thiên
Sai trần thế,
đến giải phóng
dân tộc khỏi ách
thống trị của đế
quốc Rô-ma (x.
Mt 22,42; Ga
7,42). +
“Xin
dủ ḷng thương
tôi”: Lời
cầu xin này nói
lên sự khiêm hạ
và ḷng tin mạnh
mẽ của anh mù
vào quyền năng
Đức Giê-su. Anh
trông cậy Người
sẽ làm cho anh
được sáng mắt
như ngôn sứ
Isaia đă tuyên
sấm về sứ mệnh
của Đấng Thiên
Sai: “Bấy
giờ mắt người mù
mở ra, tai người
điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què
sẽ nhảy nhót như
nai, miệng lưỡi
người câm sẽ reo
ḥ...” (Is
35,5-6). +
Nhiều người quát
nạt bảo anh im
đi: Một
số người ở gần
anh mù tỏ vẻ bực
tức trước việc
anh ta kêu la
lớn tiếng. Họ
bắt anh mù phải
im lặng để họ
nghe được lời
Đức Giê-su lúc
đó đang vừa đi
đường vừa giảng
dạy. +
Nhưng anh ta
càng kêu lớn
tiếng: “Lạy Con
Vua Đavít! Xin
dủ ḷng thương
tôi”: V́
tin vào t́nh
thương và quyền
năng của Đức
Giê-su Thiên
Sai, nên anh mù
bất chấp mọi rào
cản: Người ta
càng cấm, th́
anh lại càng kêu
la thống thiết
hơn: “Lạy Con
Vua Đavít, xin
dủ ḷng thương
tôi!”.
- C
49-50: +
Người ta gọi anh
mù và bảo: “Cứ
yên tâm, đứng
dậy! Người gọi
anh đấy”: Thái
độ của đám đông
đối với anh mù
đă thay đổi: Từ
khinh thường nạt
nộ đến tôn trọng
và nhỏ nhẹ hơn
với anh. +
Anh mù liền vất
áo choàng lại,
đứng phắt dậy mà
đến gần Đức
Giê-su: Áo
choàng là một
vật thiết thân
đối với khách bộ
hành và người ăn
xin. Nó thường
được dùng làm dù
che cơn nắng gắt
ban ngày và làm
mền đắp cho ấm
ban đêm. Vậy mà
khi nghe nói
“Người gọi anh
đấy”, anh ta
liền vất áo
choàng lại, đứng
bật dậy mà chạy
mau về phía Đức
Giê-su, như thể
anh đă được sáng
mắt rồi vậy.
- C
51-52: +
“Anh muốn tôi
làm ǵ cho anh?”
: Dù đă
biết rơ anh mù
muốn xin ǵ rồi,
nhưng Đức Giê-su
vẫn tạo cơ hội
để anh ta biểu
lộ đức tin. +
“Xin cho tôi
nh́n thấy
được”: Anh
mù không xin
tiền bạc hay đồ
ăn thức uống như
mọi khi, mà chỉ
xin được sáng
mắt, được nh́n
thấy mọi sự như
bao người khác. +
“Anh hăy đi,
ḷng tin của anh
đă cứu anh”: Điều
kiện để được Đức
Giê-su cứu chữa
là phải có đức
tin, như khi
Người chữa lành
cho hai người mù
(x. Mt 9,29),
khi chữa người
phong cùi (x. Lc
17,9)... +
Tức khắc, anh ta
nh́n thấy được
và đi theo Người
trên con đường
Người đi: Anh
mù chỉ xin được
sáng mắt thể
xác, nhưng Đức
Giê-su lại ban
cho anh được
sáng ḷng, sáng
cả mắt linh hồn,
để anh có đức
tin trọn vẹn,
nh́n thấy được
con đường Người
sắp đi và can
đảm bước theo
Người đi lên
Giêrusalem, trải
qua mầu nhiệm
“qua đau khổ vào
vinh quang” để
sau này được
hưởng ơn cứu độ
muôn đời.
4. CÂU HỎI:
1) Thành Giêricô
là thành nào?
Sách Xuất hành
đề cập tới tên
thành này trong
trường hợp nào?
Đức Giê-su cũng
nói tới tên
thành này trong
dụ ngôn nào?
2) Số người mù
được Đức Giê-su
chữa lành trong
2 Tin Mừng
Mat-thêu và
Mác-cô có giống
nhau không? Tại
sao?
3) “ngồi ở vệ
đường” nói lên
hoàn cảnh của
người mù này lúc
đó ra sao?
4) Tên Giê-su
nghĩa là ǵ? Tại
sao Đức Giê-su
được người mù
gọi là Giê-su
Na-da-rét?
5) Qua việc kêu
cầu Đức Giê-su
với danh hiệu
“Con Vua
Đa-vít”, người
mù biểu lộ đức
tin về Người ra
sao? C̣n dân Do
Thái lại đang
trông mong một
Đấng Thiên Sai
theo nghĩa nào?
6) Lời kêu xin
của người mù cho
thấy đức tin của
anh vào Đức
Giê-su ra sao?
7) Tại sao dân
chúng cấm anh mù
kêu lớn tiếng?
Tại sao anh lại
kêu la thống
thiết hơn?
8) Anh mù đă làm
ǵ với chiếc áo
choàng thiết
thân khi nghe
Đức Giê-su cho
gọi anh?
9) Tại sao Đức
Giê-su lại hỏi
anh mù xin ǵ,
dù Người đă nghe
rơ lời kêu xin
của anh?
10) Trong Tin
Mừng, Đức Giê-su
luôn đ̣i người
ta phải có điều
kiện ǵ để được
Người làm phép
lạ?
11) Ngoài việc
được sáng mắt
thể xác, anh mù
c̣n được Người
ban ơn ǵ về
tinh thần?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Anh
mù liền vất áo
choàng lại, đứng
bật dậy mà đến
gần Đức Giê-su
(Mc 10,50):
2. CÂU CHUYỆN:
1) NĂM ANH MÙ ĐI
XEM VOI:
Nhân buổi ế
hàng, năm ông
thầy bói ngồi
tán chuyện với
nhau. Thầy nào
cũng phàn nàn
không biết h́nh
thù con voi như
thế nào. Chợt
nghe người ta
nói đang có voi
sắp đi ngang
qua, năm thầy
chung tiền biếu
người quản voi,
xin cho voi dừng
lại ít phút để
cho họ t́m hiểu
về h́nh thù của
nó. Được sự đồng
ư của người quản
voi, năm thầy
bói liền đến gần
để sờ. Thầy th́
sờ thấy cái ṿi,
thầy th́ sờ được
cái tai, thầy
th́ lại sờ được
chân, thầy th́
sờ thấy cái
đuôi. Rồi năm
thầy ngồi lại
đàm luận với
nhau
Thầy sờ thấy cái
ṿi liền nhận
xét: Tưởng con
voi thế nào, hoá
ra nó chỉ như
một con đỉa lớn.
Thầy sờ thấy tai
căi lại: Đâu có!
Nó bè bè giống
như một cái quạt
nan lớn.
Thầy sờ thấy
chânkhông đồng
ư: Ai bảo? Nó to
sừng sững như
cây cột đ́nh
làng.
Thầy sờ vào thân
ḿnh voi phán:
Không đúng. Con
voi giống như
một cái trống
lớn.
Thầy sờ đuôi
bảo: Các thầy
đều nói sai cả.
Nó giống như một
cây chổi xể cùn.
Năm thầy, thầy
nào cũng cho là
ḿnh nói đúng và
không ai chịu
thua ai. Từ đánh
vơ miệng biến
thành đánh lộn
dùng gậy đập
nhau loạn xạ
khiến cho kẻ th́
bị bể đầu, người
lại bị sứt trán.
Người ta thường
hay tranh căi
nhau v́ ai cũng
nghĩ chỉ có ḿnh
đúng, c̣n người
khác đều sai,
đang khi thực ra
mỗi người chỉ
đúng trong cái
nh́n phiến diện
của ḿnh. Chính
thái độ cố chấp
đă khiến năm anh
thầy bói mù
tranh căi đánh
lộn nhau để bảo
vệ cho nhận thức
sai trái của
ḿnh. Điều quan
trọng là mỗi
người cần khiêm
tốn thừa nhận
mặt hạn chế của
ḿnh để sẵn sàng
tiếp thu sự góp
ư của người
khác. Có như vậy
chúng ta mới hy
vọng đạt tới
được sự thật
toàn vẹn.
2) T̀M ĐƯỢC MẸ
RUỘT NHỜ CON MẮT
TRÁI TIM:
Vào một buổi
chiều năm 1945,
tại nhà ga
Verona nước
Italia, có khá
đông dân chúng
đang tập trung
tại sân ga và
náo nức chờ đón
một số binh lính
là người thân
của họ trở về từ
các trại tập
trung của Đức
Quốc Xă. Lúc đó,
một người lính
trẻ bị mù hai
mắt cũng đang
lần ṃ từng bước
trên sân ga. Khi
tiến gần đến chỗ
một phụ nữ lớn
tuổi đang đứng
chung với mấy
người thân trong
gia đ́nh, đột
nhiên anh lính
mù dừng lại rồi
kêu to lên:
“Mẹ!”, và rồi
hai mẹ con ôm
chầm lấy nhau
khóc nức nở. Một
lúc sau, khi
phát hiện ra cặp
mắt của con trai
đă bị mù hoàn
toàn, bà mẹ liền
hỏi: “Con ơi,
mắt con đă bị mù
như thế mà sao
lúc năy con lại
nh́n thấy mẹ
giữa bao nhiêu
người khác và
kêu lên như
vậy?”. Anh lính
trẻ liền đáp:
“Thưa mẹ, tuy
mắt con không
thể nh́n thấy
mặt mẹ như
trước, nhưng
chính trái tim
đă mách bảo con
là mẹ cũng đang
có mặt tại đây
và đang chờ đón
con. Khi từ trên
xe lửa bước
xuống sân ga,
con cứ đi theo
sự mách bảo của
trái tim và đến
lúc tự nhiên
linh tính mách
bảo rằng mẹ đang
ở rất gần bên
con, th́ tự
nhiên con buột
miệng la to lên
“Mẹ!” và quả
thật con đă gặp
được mẹ như mẹ
đă thấy đó”.
3) AI MỚI BỊ MÙ?
Một anh mù kia
đến nhà bạn
chơi. Lâu rồi
không gặp nên
hai người nói
chuyện lâu giờ
quên cả thời
gian. Khi trời
đă tối mịt th́
anh mù mới từ
giă bạn ra về.
Thấy đường làng
tối thui, người
bạn liền bảo:
“Này anh bạn,
hăy để tôi thắp
cho anh một cây
đèn dầu, v́ bên
ngoài trời đă
tối quá rồi”.
Anh mù nghĩ bạn
muốn trêu đùa
nên trả lời:
“Anh nói ǵ vậy?
Tôi bị mù th́
cần ǵ đến cây
đèn sáng mà anh
định trao cho
tôi?”. Anh bạn
kia liền nói: “Ư
tôi là anh nên
cầm đèn cháy
sáng để người
khác nh́n thấy
ánh đèn sẽ không
đụng vào anh”.
Anh mù nghe ra
liền cám ơn bạn
và vui vẻ cầm
đèn ra về. Nhưng
mới đi được một
đoạn đường th́
bỗng anh mù bị
một người đi
ngược chiều đụng
phải và bị té
ngă. Quá tức
giận, anh lồm
cồm ḅ dậy chửi
đổng: “Mù hay
sao mà không
thấy cây đèn ta
đang cầm trên
tay?”. Người kia
liền đáp: “Mi
mới bị mù th́
có! Cây đèn trên
tay mi đă bị tắt
lâu rồi, mà sao
mi lại dám trách
mắng ta?”.
4) VỊ ÂN NHÂN ĐĂ
PHÁT MINH RA CHỮ
NỔI CHO NGƯỜI
MÙ:
LOUIS BRAILLE
(1809 - 1852)
sinh ra tại
Coupvray, thị
trấn nhỏ miền
Đông nước Pháp.
Ông được mệnh
danh là “Người
đem ánh sáng cho
thế giới bóng
tối” v́ đă phát
minh ra bảng hệ
thống chữ nổi
dành cho người
mù khi ông mới
15 tuổi. Phát
minh của ông
được ví như một
cuộc cách mạng
làm thay đổi sâu
sắc cuộc sống
của những người
khiếm thị trên
toàn thế giới.
Năm 3 tuổi,
Braille đă bị mù
cả hai mắt do bị
nhiễm trùng sau
một tai nạn. Cha
mẹ đă cho
Braille vào học
ở trường dành
cho người khiếm
thị tại Paris.
Thời điểm đó,
những đứa trẻ mù
được học đọc các
kư tự in nổi
nhưng không thể
viết ra giấy các
chữ nổi được.
Nhận ra mặt hạn
chế của hệ thống
chữ này, dù mới
được 12 tuổi
nhưng Braille đă
nghĩ ra một loại
chữ viết mới mà
người mù có thể
cảm nhận được
bằng ngón tay,
gọi là chữ nổi
Braille. Braille
đă hoàn thiện nó
khi được tṛn 15
tuổi. Anh đă cải
tiến hệ thống
chữ cái 12 chấm
xuống c̣n 6 chấm
nhỏ gọn trên
trang giấy. Từ 6
chấm này người
ta có thể viết
được tất cả các
chữ cái, kể cả
các kư hiệu
trong toán học
và nhạc lư. Năm
1829, Braille đă
xuất bản cuốn
sách chữ nổi đầu
tiên mà đến nay
vẫn đang tiếp
tục được chính
thức sử dụng dạy
học trong các
trường khiếm
thị.
Về sau Louis
Braille đă bị
mắc bệnh lao
phổi và qua đời
khi mới được 43
tuổi. Phát minh
của ông đă được
cả thế giới thừa
nhận là một
phương tiện
không thể thay
thế trong lĩnh
vực giáo dục
người khiếm thị.
Để tri ân ông,
người ta đă đặt
tượng ông trong
Điện Panthéon,
nơi muôn đời ghi
ơn các bậc danh
nhân công thần
của nước Pháp và
đă lấy tên ông
đặt cho loại chữ
nổi này.
3. THẢO LUẬN:
Khi gặp phải tai
nạn hay điều rủi
ro trái ư, bạn
cần làm ǵ để đi
theo con đường
“Qua đau khổ vào
trong vinh
quang” của Đức
Giê-su?
4. SUY NIỆM:
1) Anh mù gặp
Chúa đă được
sáng mắt sáng
ḷng:
- Tin
mừng hôm nay ghi
nhận câu chuyện
về người mù
thành Giê-ri-cô
đă chạy đến với
Đức Giê-su không
phải nhờ con mắt
thể xác nhưng
nhờ con mắt đức
tin. Tuy mắt anh
không nh́n thấy
Đức Giê-su,
nhưng chính con
mắt đức tin đă
mách bảo và dẫn
đường để anh
chạy đến với
Người. Trước đó
anh đă nghe đồn
Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai
và ao ước gặp
Người để xin
Người chữa anh
khỏi mù. V́ thế
khi nghe thấy
một đám đông
đang đến gần chỗ
anh đang ngồi ăn
xin bên vệ đường
và anh nghe có
tiếng của một
ráp-bi đang
giảng trên
đường, th́ anh
liền ḍ hỏi và
được biết vị tôn
sư kia chinh là
Đức Giê-su
Na-da-rét, người
mà anh đă nghe
danh và mong
được gặp.
- Bấy giờ anh mù
liền kêu to:
“Lạy ông Giê-su,
Con Vua Đa-vít,
xin dủ ḷng
thương tôi!”. Dù
bị nhiều người
đi trước cấm la
to, nhưng anh mù
lại càng kêu to
hơn với hy vọng
lời kêu xin của
anh thấu tới Đức
Giê-su. Quả thật
Đức Giê-su đă
nghe và cho gọi
anh đến gần.
Nghe vậy anh mù
liền quăng chiếc
áo choàng đang
khoác trên ḿnh
xuống đất, nhảy
chồm dậy để chạy
mau đến gặp
Người giống như
anh chưa bao giờ
bị mù. Sau khi
biết được ḷng
tin và mong ước
của anh mù, Đức
Giê-su liền
tuyên bố: “Anh
hăy đi, ḷng tin
của anh đă cứu
anh!”. Lập tức
anh mù được sáng
mắt để thấy được
đường đi, mà anh
c̣n được sáng
ḷng để tin Đức
Giê-su chính là
Đấng Thiên Sai
và cùng đi theo
Người lên Giê-ru-sa-lem.
2) Xin Chúa mở
con mắt đức tin
cho chúng ta:
- Chúa
Giê-su đă chữa
lành bệnh mù thể
xác, và Người
cũng chữa lành
bệnh mù tâm hồn.
Chính sự mù tối
tâm hồn này c̣n
tác hại hơn bệnh
mù ngoài thể xác.
Một người mù tâm
hồn là người
không chấp nhận
sự thật, cố t́nh
không muốn nhận
t́nh thương và
sự giúp đỡ của
tha nhân. Mỗi
người chúng ta
hăy tự vấn lương
tâm mỗi buổi tối
trước khi đi ngủ:
« Hiện giờ tôi
có bị mù tâm hồn
không? » Hăy cầu
xin Chúa ban ơn
chữa lành như
sau: “Lạy Chúa.
Xin hăy mở mắt
linh hồn con ra
để con thấy
những kỳ công
Chúa làm và dâng
lời ngợi khen
chúc tụng Chúa.
Xin cho con luôn
biết nghĩ đến
người khác để
sẵn sàng cảm
thông và chia sẻ
niềm vui nỗi
buồn với họ “.
- Trong giao
tiếp xă hội,
thay v́ chỉ nh́n
các khuyết điểm
lỗi lầm của kẻ
khác để chỉ
trích lên án,
chúng ta hăy
nh́n vào mặt
tích cực của họ.
Cần ư thức rằng:
Dù một kẻ tội
lỗi xấu xa đến
đâu th́ trong
ḷng họ vẫn c̣n
ít nhất 5 phần
trăm tốt. Điều
chúng ta cần làm
là phải t́m ra 5
phần trăm tốt đó
và nhân rộng ra
để giúp họ loại
trừ 95 phần trăm
điều xấu tội lỗi
c̣n lại trong
ḿnh.
3) Đừng ngăn cản
tha nhân đến với
Chúa:
- Tin
Mừng hôm nay
cũng cho thấy
thái độ không
phù hợp của đám
đông đi trước
Đức Giê-su, khi
họ quát
nạt cấm anh mù
không được la
lớn tiếng. Họ
giống như các
đầu mục Do thái
là rào cản không
cho dân chúng
đến được với Đức
Giê-su, nên đă
bị Người quở
trách: “Khốn
cho các ngươi,
hỡi những luật
sĩ và biệt phái
giả h́nh! V́ các
ngươi đóng cửa
Nước Trời không
cho người ta vào:
v́ các ngươi
không vào, mà kẻ
muốn vào, các
ngươi cũng chẳng
để cho vào” (Mt
23,13).
- Chúng ta cũng
sẽ trở thành rào
cản, khi ngăn
chặn các tội
nhân đến với
Chúa bằng những
câu nói nghi kỵ
và khinh dể...
Chẳng hạn: Khi
thấy một người
đă từng nghiện
rượu, cờ bạc,
hút sách, trộm
cắp muốn hoàn
lương... Lẽ ra
phải động viên
khích lệ họ, th́
nhiều người
trong chúng ta
đă nói ra những
lời nghi ngờ
thiện chí muốn
hoàn lương của
họ. Ngoài ra,
chúng ta cũng sẽ
trở thành rào
cản khi sống bê
tha gian ác hơn
người lương
chung quanh.
Nhiều anh em
đang có thiện
cảm và muốn theo
đạo đă phải
khựng lại khi
chứng kiến thái
độ độc ác bóc
lột người nghèo
của người công
giáo, hoặc khi
thấy một số mục
tử bị đưa ra ṭa
án đời xét xử về
những tội xấu xa...
4) Làm ǵ để
được sáng mắt
sáng ḷng mà đi
theo Chúa?:
- Mỗi
ngày chúng ta
hăy xin Chúa mở
mắt linh hồn để
nh́n thấy Chúa
đang hiện diện
trong những kỳ
công trong vũ
trụ thiên nhiên,
nơi bản thân
ḿnh và nơi tha
nhân... rồi dâng
lời ngợi khen tạ
ơn Thiên Chúa.
- Mỗi khi gặp
t́nh huống khó
giải quyết, mà
không biết nên
làm ǵ cho đúng,
chúng ta hăy
lắng nghe Lời
Chúa trong Kinh
Thánh, t́m hiểu
ư Chúa muốn và
mau mắn xin vâng.
Khi gặp rủi ro
thất bại, chúng
ta hăy tín thác
cậy trông vào
Chúa quan pḥng
và sẵn sàng chấp
nhận con đường
“Qua đau khổ vào
trong vinh quang”
của Chúa khi xưa.
- Trong mọi giây
phút cuộc đời,
chúng ta hăy
biết khiêm tốn
chạy đến xin
Chúa Giê-su mở
mắt đức tin để
thấy được sự
thật toàn vẹn.
Người sẽ dẫn
đường chỉ lối
cho chúng ta đi
theo con đường
yêu thương phục
vụ của Người,
giúp chúng ta
sẵn sàng bỏ ḿnh
vác thập giá
ḿnh hằng ngày
mà theo chân
Người. Chấp nhận
cùng chết với
Chúa hôm nay để
được phục sinh
với Người mai
sau.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su.
Xin cho con nh́n
thấy Chúa đang
hiện diện trong
ḷng con, để con
biết năng tâm sự
với Chúa.
Xin mở mắt đức
tin giúp con
nh́n thấy Chúa
trong thiên
nhiên, để con
dâng lời ngợi
khen Chúa.
Xin cho con nh́n
thấy Chúa hiện
diện trong thánh
lễ và nơi Nhà
Tạm để con năng
đến dự lễ để
nghe Lời Chúa
giáo huấn và
được kết hiệp
mật thiết với
Chúa khi lên
rước lễ.
Xin cho con biết
mở mắt đức tin
để nh́n thấy
Chúa đang hiện
thân nơi những
người nghèo khổ,
tuyệt vọng và bị
bỏ rơi... để con
động viên an ủi
và ân cần phục
vụ họ như phục
vụ chính Chúa...
Nhờ đó con sẽ
nên chứng nhân
cho t́nh thương
của Chúa giữa
ḷng xă hội Việt
Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.