.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
6,51-58
(51) Tôi là
Bánh Hằng
Sống từ trời
xuống. Ai ăn
Bánh này, sẽ
được sống muôn
đời. Và Bánh
Tôi sẽ ban
tặng, chính
là Thịt Tôi
đây, để cho
thế gian được
sống”. (52)
Người Do Thái
liền tranh
luận sôi nổi
với nhau. Họ
nói: “Làm sao
ông này có
thể cho chúng
ta ăn Thịt ông
ta được?” (53)
Đức Giê-su nói
với họ:
“Thật, Tôi bảo
thật các ông:
Nếu các ông
không ăn Thịt
và uống Máu
Con Người, các
ông không có
sự sống nơi
mình”. (54) Ai
ăn Thịt và
uống Máu Tôi,
thì được sống
muôn đời, và
Tôi sẽ cho
người ấy sống
lại vào ngày
sau hết. (55)
Vì Thịt Tôi
thật là của
ăn, và Máu Tôi
thật là của
uống. (56) Ai
ăn Thịt và
uống Máu Tôi
thì ở lại
trong Tôi, và
Tôi ở lại
trong người
ấy. (57) Như
Chúa Cha là
Đấng Hằng
Sống đã sai
Tôi, và Tôi
sống nhờ Chúa
Cha thế nào,
thì kẻ ăn Tôi,
cũng sẽ nhờ
Tôi mà được
sống như vậy.
(58) Đây là
Bánh từ trời
xuống. Không
phải như bánh
tổ tiên các
ông đã ăn, và
họ đã chết.
Ai ăn Bánh
này, sẽ được
sống muôn đời.
2. Ý CHÍNH: Sau
phép lạ nhân
bánh ra nhiều,
tại hội đường
thành
Ca-phác-na-um,
Đức Giê-su đã
giảng về Bánh
Hằng Sống là
bí tích Thánh
Thể. Nội dung
bài giảng
được tóm lược
như sau: Ai ăn
Thịt và uống
Máu Người,
tức là lãnh
nhận bí tích
Thánh Thể mà
Người sẽ thiết
lập, thì ở
đời này sẽ
được kết hiệp
mật thiết với
Người, được
tham phần vào
sự sống thần
linh của
Người, và đến
ngày tận thế
sẽ được sống
lại để hưởng
hạnh phúc muôn
đời với Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 51: +
Tôi là Bánh
Hằng Sống từ
trời
xuống...: Đức
Giê-su tự xưng
là tấm Bánh
với hai đặc
tính thần linh
là “hằng
sống” và “từ
trời xuống”. +
Bánh Tôi sẽ
ban tặng: Sẽ
ban là chưa ban
ngay lúc này,
nhưng sẽ ban
khi lập bí
tích Thánh
Thể vào bữa
Tiệc Ly sau
này (x. Mt
26,26-28). +
Chính là Thịt
Tôi đây: Thịt
(Sarx) trong
ngôn ngữ Hy
Lạp ám chỉ
con người toàn
diện gồm cả
xác lẫn hồn.
Thịt ở đây
cũng chính là
Thịt (Sarx)
trong câu: “Ngôi
Lời đã hóa
thành “nhục
thể” – hay là
“Thịt” (Sarx)
hoặc “người
phàm” (Sarx) -
và cư ngụ
giữa chúng ta
(Ga 1,14). Ở
đây, “Bánh”
được liên kết
với “Thịt” và
với “Sự
Sống”, là hai
đặc tính của
bí tích Thánh
Thể. +
Cho thế gian
được sống: Thịt
của Đức Giê-su
tức là bánh
Thánh Thể, là
lương thực
thần linh, sẽ
đem lại hiệu
quả là ban sự
sống cho người
lãnh nhận.
- C
52-53: +
Làm sao ông
này có thể
cho chúng ta ăn
Thịt ông ta
được?: Dân
chúng Do Thái
nghe Đức Giê-su
giảng và đã
hiểu đúng ý
của Người. Đó
là Người cho
người ta ăn
chính Thịt
của Người. Họ
thắc mắc và
phản đối Đức
Giê-su vì nghĩ
rằng Người đã
hóa điên khùng
nên mới ăn nói
bừa bãi như
vậy. +
Thật, Tôi bảo
thật các ông: Trước
sự thắc mắc
về việc cho
người ta ăn
Thịt của
mình, Đức
Giê-su đã không
làm dịu kiểu
nói này lại
và cũng không
cải chính để
tránh cho họ
hiểu sai ý
mình, nhưng
Người lại
tiếp tục xác
quyết: “Thật,
Tôi bảo thật
các ông”. +
Nếu các ông
không ăn Thịt
và uống Máu
Con Người, các
ông không có
sự sống nơi
mình: Đây
là cách diễn tả
khác nhằm
nhấn mạnh sự
thật này:
người ta chỉ
có sự sống
của Chúa nơi
bản thân khi
lãnh nhận bí
tích Thánh
Thể, tức là
ăn Thịt và
uống Máu của
Người.
- C
54-56: +
Ai ăn Thịt và
uống Máu Tôi
thì được sống
muôn đời, và
Tôi sẽ cho
người ấy sống
lại vào ngày
sau hết: Kẻ
lãnh nhận
Thịt Máu Đức
Giê-su trong bí
tích Thánh
Thể sẽ được
tham phần vào
sự sống đời
đời và được
Đức Giê-su cho
sống lại vào
ngày tận
thế. +
Thịt Tôi thật
là của ăn, và
Máu Tôi thật
là của uống: Trong
bốn câu liền
(c.
53.54.55.56),
Tin Mừng Gio-an
dùng cặp từ:
Thịt (Sarx) và
Máu (Haima) để
chỉ con người
toàn diện của
Đức Giê-su. +
Thì ở lại
trong Tôi và
Tôi ở lại
trong người
ấy: Hiệu
quả của việc
lãnh bí tích
Thánh Thể là
người ta được
kết hiệp thân
mật với Chúa
Giê-su. Nghĩa
là được “ở
lại” trong
Người, đón
nhận sự sống
dồi dào của
Người và trở
thành bạn tâm
giao của
Người, như
thánh Phao-lô
đã viết: “Tôi
sống, nhưng
không còn phải
là tôi, mà là
Đức Ki-tô sống
trong tôi” (Gl
2,20).
- C
57-59: +
Như Chúa Cha
là Đấng Hằng
Sống đã sai
Tôi, và Tôi
sống nhờ Chúa
Cha thế nào,
thì kẻ ăn Tôi,
cũng sẽ nhờ
Tôi mà được
sống như vậy: Đức
Giê-su nói đến
sự sống siêu
nhiên nhờ bí
tích Thánh
Thể. Ai ăn
Bánh Thánh
Thể thì sẽ
được tham phần
vào sự sống
siêu nhiên phát
xuất từ nơi
Chúa Cha thông
qua Chúa
Giê-su. +
Đây là Bánh
từ trời
xuống. Không
phải như bánh
tổ tiên các
ông đã ăn, và
họ đã chết.
Ai ăn Bánh này
sẽ được sống
muôn đời: Sự
sống siêu nhiên
mà Bánh Thánh
Thể ban cho
người lãnh
nhận, khác
với sự sống
tự nhiên thể
xác do bánh
Man-na mang
lại. Vì thế
mà dân
Ít-ra-en xưa,
dù đã ăn
Man-na trong sa
mạc nhưng vẫn
bị chết do
tội đã phạm.
Còn ai ăn Bánh
do Chúa Giê-su
ban trong bí
tích Thánh
Thể thì sẽ
được sống đời
đời, nhờ đón
nhận được sự
sống siêu nhiên
của Người.
4. CÂU HỎI: 1)
Bánh Thánh do
Đức Giê-su hứa
ban có hai đặc
tính thần
thiêng nào? 2)
Bánh đó sẽ
được ban khi
nào và là
Bánh gì? 3)
Từ Thịt (Sarx)
trong tiếng Hy
Lạp có nghĩa
là gì? 4) Khi
Đức Giê-su hứa
sẽ ban Bánh
Hằng Sống là
Thịt của
Người trong bí
tích Thánh
Thể, người Do
Thái đã hiểu
ra sao? Có hiểu
đúng với ý
Người muốn nói
không? Tại sao?
5) Khi thấy họ
phản đối, Đức
Giê-su không
những không
thay đổi điều
vừa nói hay
nói nhẹ đi,
mà Người càng
nhấn mạnh hơn
qua câu nào? 6)
Ai ăn Thịt
uống Máu Đức
Giê-su trong bí
tích Thánh Thể
sẽ nhận được
hiệu quả nào?
7) Trong 4 câu
liền (câu
53.54.55.56),
Đức Giê-su
dùng hai từ
Thịt và Máu
ám chỉ điều
gì? 8) Câu nào
cho thấy hiệu
quả của việc
ăn Thịt uống
Máu Chúa
Giê-su trong bí
tích Thánh
Thể? Thánh
Phao-lô viết
về sự kết
hiệp mật
thiết với
Chúa Giê-su qua
câu nào? 9) Sự
sống siêu nhiên
nhận được do bí
tích Thánh
Thể là sự
sống nào? 10)
Sự sống siêu
nhiên nhận được
từ Bánh Thánh
Thể thời Tân ước
với sự sống
tự nhiên từ
Manna thời Cựu
ước khác nhau
thế nào?
II.SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Bánh Tôi sẽ
ban tặng chính
là Thịt Tôi
đây để cho thế
gian được
sống” (Ga
6,51).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MẸ SẴN SÀNG
CHỊU CHẾT CHO
CON ĐƯỢC SỐNG:
Vào cuối thế
kỷ trước, bên
Anh quốc có
phong trào di
dân sang lập
nghiệp tại Úc
Châu. Trên một
chiếc thuyền
buồm chở
người di cư,
có một bà mẹ
trẻ góa
chồng, mang
theo một đứa
con thơ còn bú
sữa mẹ. Sau
khi thuyền khởi
hành được mấy
ngày, thì một
cơn bão bất
ngờ ập đến
làm biển động
dữ dội, con
thuyền bị
sóng đánh tơi
tả và cột
buồm đă bị
gãy. Từ đó,
con thuyền lênh
đênh trôi trên
mặt biển
nhiều ngày.
Lương thực trên
thuyền đă dần
dần cạn kiệt.
Nhiều người
bắt đầu bị chết
đói và sau đó
bị quăng xuống
biển. Vào một
buổi sáng
người ta phát
hiện ra bà mẹ
trẻ kia cũng đă
bị chết đói,
trong khi đứa
con nằm bên
cạnh vẫn c̣n
sống. Thì ra
bà mẹ này
trước khi chết
đã dùng dao
cứa đứt đầu
ngón tay út
và cho con bú
máu của mình
thay cho sữa
mẹ đă hết. Bà
đã hy sinh chịu
chết để cho
đứa con của bà
được sống! Về
sau đứa trẻ kia
lớn lên đã
trở thành một
vị dân biểu
nổi tiếng
trong vùng. Ông
luôn nhớ đến
công ơn trời
biển của người
mẹ đã hy sinh
lấy máu mình
để làm lương
thực nuôi ông
khỏi bị chết.
Rồi một hôm,
ông đã đứng
trên diễn đàn
quốc hội kể
lại câu chuyện
thời thơ ấu
của mình, và
đề nghị quốc
hội chọn một
ngày trong năm
để tôn vinh
các bà mẹ,
nhắc nhở con
cái phải hiếu
thảo với mẹ
của mình. Đó
là nguồn gốc
ngày Quốc Tế
Các Bà Mẹ
hiện nay.
2) CƠM BÁNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI ĐANG
ĐÓI CÓ GIÁ TRỊ
NGÀN LẦN HƠN KIM
CƯƠNG:
Đây là câu
chuyện có thực
của một nhà thám
hiểm. Sau mười
ngày một ḿnh
băng qua sa mạc
Phi châu, một
nhà thám hiểm nọ
sắp kiệt sức v́
bị lạc đường và
đă ăn hết số
lương thực mang
theo. Ông ta đi
theo hướng mặt
trời mọc, nhưng
rồi đi đến chỗ
nào cũng chỉ
thấy cát và cát.
Cuối cùng, ông
cũng đến được
một ốc đảo có hồ
nước và cây cỏ
xanh tươi. Sau
khi uống nước no
nê, ông lại lại
bị cơn đói hành
hạ. Đột nhiên
ông thấy một
chiếc bị bằng da
nằm lăn lóc ở
gần chỗ đang
ngồi. Hy vọng
t́m được một
chút lương thực
trong chiếc bị
da kia để tiếp
tục lên đường,
nhưng thay v́
thấy lương thực
ông lại chỉ thấy
nhiều viên kim
cương óng ánh
rất đẹp. Ông cay
đắng thốt lên
với nỗi thất
vọng: “Những
viên kim cương
này đâu có giá
trị ǵ khi ta
sắp chết đói?”
Nói rồi ông ôm
chiếc bị da chứa
kim cương thiếp
ngủ vào cơi
chết.
Ít lâu sau, một
đoàn thám hiểm
cũng băng qua sa
mạc, họ đă thấy
một bộ xương
người đang ngồi
dựa vào tảng đá,
hai tay ôm chặt
chiếc bị da,
trong có nhiều
viên kim cương
quư giá, nhưng
lại trở thành vô
ích đối với
người bị đói
đang cần được
ăn.
3) CỬ HÀNH THÁNH
LỄ TRONG NHÀ TÙ:
Đức Hồng y
PHAN-XI-CÔ
XA-VI-Ê NGUYỄN
VĂN THUẬN đă
viết lại những
trang hồi kư
trong thời gian
ngài bị biệt
giam trong tù.
Ngài tóm gọn
thành một tập
sách nhỏ mang
tựa đề “Năm
chiếc bánh và
hai con cá” để
chia sẻ cho giáo
triều Rô-ma
trong dịp tĩnh
tâm mùa chay
thập niên 90.
Ngài thú nhận,
sức mạnh lớn
nhất nâng đỡ
ngài trong những
năm tháng tù
ngục là được cử
hành Thánh lễ
cho dù lén lút,
nhưng rất cảm
động và sâu
lắng. Thánh lễ
ngài dâng một
ḿnh trong bóng
tối của nhà tù,
không kèn không
trống, cũng
chẳng có ánh đèn
hay một bông hoa
trang trí nào.
Áo tù ngài mặc
thay cho áo lễ.
Đôi bàn tay sần
sùi của ngài
đựng những giọt
rượu nho thay
cho chén thánh. Bánh
lễ chứa trong
hộp đựng thuốc
ho. Những Thánh
lễ rất âm thầm
và giản đơn,
không ồn ào,
không một chút
hoành tráng bề
ngoài, chẳng có
ca đoàn hay
người giúp lễ..
nhưng sao chép
lại gần sát với
chính Thánh lễ
mà Chúa Giê-su
đă cử hành năm
xưa trên thập
giá.
4) VIỆC BÁC ÁI
TỪ THIỆN BẮT
NGUỒN TỪ L̉NG
MẾN BÍ TÍCH
THÁNH THỂ:
Trong một cuộc
họp mặt đông đảo
các Kitô hữu tại
một nhà thờ ở
Tây Đức để đón
chào mẹ TÊ-RÊ-XA
CAN-QUƯT-TA,
người ta đă dâng
cho mẹ một bó
hoa rất đẹp. Bỡ
ngỡ trước ḷng
quư mến và trọng
kính mà người ta
đă dành cho
ḿnh, mẹ Têrêxa
mới đầu tỏ ra
hơi lúng túng,
nhưng sau đó vài
phút, với thái
độ đơn sơ quen
thuộc, mẹ đă ôm
bó hoa đi thẳng
lên cung thánh,
mẹ quỳ gối nơi
bậc bàn thờ rồi
đặt bó hoa trước
nhà tạm. Cử chỉ
này cho thấy mẹ
Têrêxa rất quư
trọng phép Thánh
Thể, v́ Thánh
Thể chính là
nguồn t́nh yêu
và nghị lực mà
từ đó mẹ đă nhận
được t́nh yêu và
nghị lực cho
cuộc sống dấn
thân và phục vụ
vô vị lợi của
mẹ.
Qua các hoạt
động bác ái, mẹ
Têrêxa và các nữ
tu ḍng của mẹ
đă nuôi dưỡng
hàng ngàn trẻ em
mồ côi, đă phục
vụ hàng ngàn
người nghèo đói,
đă chăm sóc,
chữa trị hàng
trăm ngàn bệnh
nhân và an ủi
hàng chục ngàn
người hấp hối.
Nhưng vượt lên
trên tất cả
những hoạt động
nhằm phục vụ cho
sự sống thể xác,
mẹTêrêxa đă đặc
biệt chú trọng
đến một nhu cầu
mà mẹ thường
nhấn mạnh và cho
là căn bản, nó
cần thiết hơn cả
cơm ăn áo mặc
nữa, nhu cầu đó
là muốn được
chấp nhận và
được yêu thương.
3. THẢO LUẬN:
Mỗi người chúng
ta cần làm ǵ
để được biến
đổi nên tốt hơn
sau mỗi lần rước
lễ?
4. SUY NIỆM:
Câu chuyện bà
mẹ nuôi con
bằng dòng máu
của mình, là
hình ảnh
tuyệt hảo nói
lên tình thương
của Chúa Giê-su
khi lập bí
tích Thánh
Thể. Người đă
tự hiến ḿnh trở
thành Bánh
thiêng nuôi
dưỡng và ban sự
sống đời đời cho
chúng ta. Vậy
Bánh Thánh
Thể là bánh
gì?
1) Sứ
mệnh của bánh:
Bánh là lương
thực có thể
ăn được và
giúp người ta
duy tŕ sự sống
(Ga 6,51). Bánh
không sống cho
mình, mà luôn
sống “vì và
cho” con người.
Chúa Giê-su tự
xưng mình là
Bánh, vì Người
đã tự hủy bản
thân, hy sinh
chính ḿnh để
cho loài người
chúng ta được
sống. Chỉ khi
nào chúng ta
sẵn sàng hy
sinh bản thân
cho tha nhân
được sống,
thì bấy giờ
ta mới trở
thành tấm bánh
giống như Bánh
Thánh Thể của
Chúa Giê-su.
2) Chúa
Giê-su là tấm
Bánh Thánh Thể
để người ta ăn:
Trong nhiều
thế kỷ, Hội
Thánh đă chủ
trương chiêm
ngưỡng và thờ
lạy Bánh
Thánh Thể hơn
là hăy cầm
lấy mà ăn như
lệnh truyền của
Chúa Giê-su.
Động từ ăn
được nhắc đi
nhắc lại
nhiều lần
trong Tin Mừng
hôm nay, như
một lời mời
gọi tha thiết
của Chúa Giê-su
là: hãy siêng
năng tham dự
bữa tiệc
Thánh Thể do
Người khoản
đãi, với hai
của ăn cao quư
trên bàn thờ là
Lời Chúa và
Mình Thánh
Chúa.
3) Chúa
Giê-su cho biết
ba hiệu quả của
bí tích Thánh
Thể như
sau:
- Một là họ sẽ
được sống lại
trong ngày tận
thế và được sống
muôn đời: “Ai
ăn Thịt và
uống Máu Tôi,
thì được sống
muôn đời, và
Tôi sẽ cho
người ấy sống
lại vào ngày
sau hết. Vì
Thịt Tôi thật
là của ăn, và
Máu Tôi thật
là của uống” (Ga
6,54-55).
- Hai là sẽ phát
sinh mối giây
thân t́nh giữa
Chúa và kẻ ăn
tiệc Thánh Thể:
“Ai
ăn Thịt và
uống Máu Tôi
thì ở lại
trong Tôi, và
Tôi ở lại
trong người
ấy” (Ga 6,56).
- Ba
là sẽ được sống
nhờ Người: “Như
Chúa Cha là
Đấng Hằng
Sống đã sai
Tôi, và Tôi
sống nhờ Chúa
Cha thế nào,
thì kẻ ăn Tôi,
cũng sẽ nhờ
Tôi mà được
sống như vậy”
(Ga 6,57).
4) Phải
ăn Bánh Thánh
Thể thế nào để
phát sinh công
hiệu?:
Ngày nay tuy
các tín hữu
đă lên rước lễ
nhiều hơn,
nhưng phần đông
lại rước lễ
cách hờ hững:
Quả thật, ít
có vị khách
quí nào lại
bị chủ nhà
tiếp đón lạnh
nhạt như Chúa
Giê-su Thánh
Thể! Do đó,
dù có năng tham
dự thánh lễ và
lên rước lễ
hằng ngày, nhưng
nhiều tín hữu
vẫn không gặp
được Chúa
Giê-su, không
nhận được biến
đổi giống Chúa,
nên họ vẫn sống
vô cảm, ích kỷ,
tự măn, lười
biếng và vô
trách nhiệm...
như bao năm qua!
Cần đổi mới cách
rước lễ để có
thể gặp gỡ Chúa,
sống kết hiệp
với Người và
ngày một được ơn
biến đổi nên
giống Người hơn.
5) Diễn tiến một
buổi cho bệnh
nhân rước lễ tại
gia:
Một nữ tu được
cha sở nhờ mỗi
sáng Chúa Nhật
mang Ḿnh Thánh
Chúa đến thăm
viếng và cho
bệnh nhân rước
lễ. Chị
đă kể lại diễn
tiến của
một buổi cho
rước lễ như
sau:
- Khi tới nơi,
tôi ngồi xuống
cạnh cụ, làm dấu
Thánh giá và đọc
một đoạn trong
bài Tin Mừng
Chúa nhật, rồi
nói lên bài học
Chúa muốn dạy
qua bài Tin
Mừng.
- Tiếp đến tôi
và cụ cùng nhau
đọc kinh Lạy Cha
như Chúa dạy.
- Rồi tôi giơ
Ḿnh Thánh lên
và nói: “Đây
Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng
xoá tội trần
gian, phúc cho
ai được mời đến
dự tiệc Chiên
Thiên Chúa”. Và
cụ đáp lại: “Lạy
Chúa, con chẳng
đáng Chúa ngự
vào nhà con,
nhưng xin Chúa
phán một lời,
th́ linh hồn con
sẽ lành mạnh”.
- Đoạn tôi trao
Ḿnh Thánh cho
cụ và cho cụ
uống chút nước
suối để rước hết
mụn bánh thánh.
- Sau một lát
thinh lặng, tôi
giúp cụ dâng lời
cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su
Thánh Thể. Ước
ǵ Ḿnh Thánh
Chúa con vừa
lănh nhận, gia
tăng sức khoẻ
hồn xác cho con.
Xin thương chữa
con mau lành
bệnh. Xin ban ơn
nâng đỡ con và
giúp con được
sống măi măi với
Chúa trên thiên
đàng. Từ nay con
xin hứa sẽ luôn
nở nụ cười với
người chung
quanh, sẵn sàng
đón nhận mọi đau
khổ trái ư gặp
phải để đền tội
con và cầu xin
cho một tội nhân
được ơn trở về
với Chúa, cho
một người lương
quen biết được
sớm nhận biết
tin yêu Chúa để
cũng được hưởng
niềm vui ơn cứu
độ với con.-
Amen”.
- Cuối cùng nói
chuyện thân
t́nh, hứa luôn
cầu nguyện và
hẹn gặp lại vào
tuần sau.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Con cảm thấy
có sự giống
nhau giữa thân
phận làm Bánh
của Chúa với
thân phận làm
người của con.
Nhờ ăn Bánh
Thánh Thể của
Chúa, con sẽ
được biến hóa
nên tấm bánh
thơm ngon, được
bẻ ra để phục
vụ tha nhân. Ước
gì con dám đón
Chúa vào vùng
mờ tối của
lòng con, để
sự hiện diện
của Chúa làm
cho con được bừng
sáng lửa tin
yêu. Ước gì sau
khi được đón
Chúa vào ḷng,
con sẽ trở thành
một Nhà Tạm di
động, luôn có
Chúa là Tình
Yêu, để chia sẻ
t́nh yêu ấy cho
tha nhân, hầu
sau này họ cũng
được hưởng hạnh
phúc đời đời với
con.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.