.
I. HỌC
LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc
12,38-44
(38) Trong lúc
giảng dạy, Đức
Giê-su nói rằng:
“Anh em phải coi
chừng những ông
kinh sư ưa dạo
quanh, xúng xính
trong bộ áo
thụng, thích
được người ta
chào hỏi ở những
nơi công cộng.
(39) Họ ưa chiếm
ghế danh dự
trong hội đường,
thích ngồi cỗ
nhất trong đám
tiệc. (40) Họ
nuốt hết tài sản
của các bà góa,
lại còn làm bộ
đọc kinh cầu
nguyện lâu giờ.
Những người ấy
sẽ bị kết án
nghiêm khắc
hơn”. (41) Đức
Giê-su ngồi đối
diện với thùng
tiền dâng cúng
cho Đền Thờ.
Người quan sát
xem đám đông bỏ
tiền vào hòm đó
ra sao. Có lắm
người giàu bỏ
thật nhiều tiền.
(42) Cũng có một
bà góa nghèo đến
bỏ vào đó hai
đồng tiền kẽm,
trị giá một phần
tư đồng bạc
Rô-ma. (43) Đức
Giê-su liền gọi
các môn đệ lại
và nói: “Thầy
bảo thật anh em:
bà góa nghèo này
đã bỏ vào thùng
nhiều hơn ai
hết. (44) Quả
vậy, mọi người
đều rút từ tiền
dư bạc thừa của
họ mà đem bỏ vào
đó. Còn bà này,
thì rút từ cái
túng thiếu của
mình mà bỏ vào
đó tất cả tài
sản, tất cả
những gì bà có
để sống.
2.Ý CHÍNH: Bài
Tin Mừng hôm nay
được chia làm
hai phần tương
ứng với hai hạng
người tiêu biểu
trong đạo Do
thái là giới
kinh sư và giới
bà góa nghèo như
sau: Trước hết,
Đức Giê-su khiển
trách thói đạo
đức giả của các
kinh sư Do thái,
biểu lộ qua 4
thói xấu như: ăn
mặc đài các, tìm
kiếm hư danh,
tranh giành địa
vị, đạo đức vụ
lợi. Sau đó,
Người đề cao
lòng đạo đức của
một bà góa
nghèo, biểu lộ
qua việc dâng
cúng tiền bạc
vào Đền Thờ. Tuy
số tiền bà dâng
không bao nhiêu,
nhưng nhờ có
lòng hy sinh,
nên bà đã được
Đức Giê-su đánh
giá là đã bỏ vào
thùng nhiều hơn
mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
- C
38: +
“Anh em phải coi
chừng những ông
kinh sư”: Đức
Giê-su cảnh giác
dân chúng coi
chừng kẻo bị lây
nhiễm các thói
xấu của các kinh
sư hay luật sĩ. +
xúng xính trong
bộ áo thụng: Áo
thụng là loại áo
choàng dài chấm
đất mà các tư tế
thường xử dụng
khi làm việc tế
tự. Người Do
thái thường tỏ
lòng tôn kính
đối với các tư
tế. Các kinh sư
cũng thích mặc
loại áo này để
tỏ ra mình có
lòng đạo đức và
cũng mong được
dân chúng kính
trọng như vậy.
Đây là thói xấu
kiêu ngạo, tự
cao tự đại (x.
Mt 23,5). +
thích được người
ta chào hỏi ở
những nơi công
cộng: Người
Do thái hay chào
hỏi các kinh sư,
là những người
giải thích Kinh
Thánh tại các
hội đường vào
ngày Sa-bát.
Danh hiệu
“ráp-bi” có
nghĩa là “đại
nhân của tôi”,
được dùng để
xưng hô khi nói
chuyện với các
kinh sư. Vì muốn
được chào hỏi
tôn kính, nên
các ông thích đi
đi lại lại ở nơi
có nhiều người
để được thiên hạ
bái chào. Đây là
thói xấu ham mê
danh vọng.
- C
39-40: +
chiếm ghế danh
dự trong hội
đường: Tại
mỗi hội đường Do
thái đều có một
chiếc ghế danh
dự đặt trước tủ
đựng kinh sách.
Đối diện với
cộng đoàn là chỗ
dành cho những
bậc vị vọng. Ai
ngồi ở đây thì
không bị che
khuất và mọi
người trong hội
đường có thể
nhìn thấy họ.
Các kinh sư vốn
tự cao nên thích
ngồi ở hàng ghế
danh dự này. Đây
là thói xấu ham
mê chức quyền. +
thích ngồi cỗ
nhất trong đám
tiệc: Tại
đám tiệc của
người Do thái,
vị trí chỗ ngồi
được xếp đặt rõ
ràng. Chỗ danh
dự nhất là ở bên
phải gia chủ.
Chỗ thứ hai là
bên trái, và
tiếp tục như vậy
từ phải sang
trái chung quanh
bàn ăn. Người ta
dễ dàng nhận ra
thứ bậc của
người khách, căn
cứ vào chỗ ngồi
được gia chủ sắp
xếp cho họ trong
bữa tiệc. +
nuốt hết tài sản
của các bà góa: Các
bà góa thường
thiếu hiểu biết,
nhẹ dạ nên được
xếp vào hạng
người cần được
quan tâm giúp đỡ
(x. Đnl
24,17.19). Mỗi
khi bị bắt nạt
chèn ép, các bà
góa thường cậy
nhờ các kinh sư
bênh vực. Đây là
cơ hội thuận
tiện để một số
phần tử xấu
trong hàng ngũ
kinh sư lợi dụng
làm tiền, bằng
cách chỉ vẽ Lề
luật và hứa cầu
nguyện cho. +
làm bộ đọc kinh
cầu nguyện lâu
giờ: Việc
các kinh sư và
người biệt phái
hay cầu nguyện
dài dòng thì ai
cũng rõ. Người
ta bảo rằng:
Những bài cầu
nguyện ấy không
nhằm dâng lên
Thiên Chúa tâm
tình yêu mến mà
chỉ nhằm phô
trương công đức
trước mặt người
đời. Do đó, họ
cố tình cầu
nguyện tại ngã
ba đường, nơi mà
người ta dễ thấy
mà ca tụng lòng
đạo đức của họ. +
họ sẽ bị kết án
nghiêm khắc
hơn: Luật
Môsê coi việc xử
tệ với các người
cô thế cô thân,
trong đó có các
bà góa là một
trọng tội và sẽ
bị trừng phạt
nghiêm khắc (x.
Xh 22,21-23).
Đức Giê-su cho
biết: Những hành
vi này của các
kinh sư chỉ là
hình thức đạo
đức giả và vụ
lợi, nên họ sẽ
bị kết án nghiêm
khắc trong ngày
tận thế.
- C
41-42: +
Đức Giê-su ngồi
đối diện với
thùng tiền dâng
cúng cho Đền
Thờ. Người quan
sát xem đám đông
bỏ tiền vào đó
ra sao: Giữa
sân dành cho dân
ngoại và sân
dành cho phụ nữ
là cửa Đẹp. Đức
Giê-su đã đến
ngồi tại đó sau
khi đã tranh
luận trong sân
dành cho dân
ngoại và tại
hành lang Đền
Thờ. Trong sân
dành cho phụ nữ
có đặt mười ba
thùng đựng tiền
của dân chúng tự
nguyện đóng góp,
dùng để làm bánh
tế lễ, mua dầu
đèn và các chi
phí khác.+
bà góa nghèo: Một
thân phận đáng
thương vì bị cô
thế cô thân
không nơi nương
tựa, nhất là còn
nghèo tiền bạc
vật chất. +
hai đồng tiền
kẽm trị giá một
phần tư đồng bạc
Rô-ma: Đây
là đơn vị tiền
tệ nhỏ nhất, ám
chỉ sự nghèo khó
cùng cực của bà
này. Sở dĩ tác
giả chú thích
hai đồng tiền
kẽm trị giá một
phần tư đồng bạc
Rô-ma là nhằm
giúp các độc giả
La-Hy thời bấy
giờ dễ hiểu hơn.
Ở đây Mác-cô
muốn nhấn mạnh
đến sự tương
phản giữa hai số
tiền dâng cúng
của hạng người
giàu và kẻ nghèo
hèn.
- C
43-44: +
Bà góa nghèo này
đã bỏ vào thùng
nhiều hơn ai
hết: Nhiều
hơn ai hết là
theo cách đánh
giá của Đức
Giê-su khi xét
theo tỷ lệ giữa
số tiền bà dâng
cúng với tài sản
của bà. Bà đã
dâng ngay cả
những cái cần
cho cuợc sống
hằng ngày, giống
như lời Đức Chúa
nói với ngôn sứ
Sa-mu-en khi ra
lệnh cho ông xức
dầu phong Đa-vít
lên làm vua thay
thế vua Sa-un:
“Người phàm chỉ
thấy điều mắt
thấy, còn Đức
Chúa thì thấy
tận đáy lòng” (1
Sm 15,7). +
mọi người đều
rút từ tiền dư
bạc thừa: Của
dư thừa ám chỉ
sự dâng cúng kém
giá trị, vì “của
nhiều lòng ít”. +
còn bà này thì
rút từ cái túng
thiếu của mình: Bà
“của ít lòng
nhiều”: Tuy tiền
dâng ít nhưng
kèm hy sinh bản
thân nên đã tăng
giá trị lên
nhiều lần.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đã
quở trách bọn
kinh sư và biệt
phái về các thói
xấu nào?
2) Người đánh
giá thế nào về
hai đồng tiền
kẽm mà bà góa
nghèo đã dâng
trong Đền thờ?
Tại sao?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Thầy bảo thật
anh em: “Bà góa
nghèo đã bỏ
thùng nhiều hơn
ai hết”(Mc
12,43).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TRÁNH LÀM
VIỆC BÁC ÁI ĐỂ
TÌM HƯ DANH:
Một bà nọ là
thành viên của
một hội đoàn đạo
đức chuyên đi
làm công tác bác
ái xã hội. Một
hôm, bà nhận
được giấy mời
đến dự buổi họp
mặt bất thường
để quyên góp
giúp đồng bào bị
thiên tai lũ lụt
vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long.
Bà dự tính kỳ
họp này sẽ tự
nguyện đóng góp
số tiền một
triệu đồng.
Nhưng trong buổi
họp, khi thấy có
nhiều Hội viên
khác cũng đóng
góp số tiền một
triệu ngang bằng
với mình, bà
muốn tỏ ra quảng
đại hơn người,
nên khi tới
phiên, bà đã ghi
vào sổ vàng cứu
trợ số tiền hai
triệu đồng.
Rồi thay vì rút
bao thư chứa hai
triệu, thì bà
lại rút nhầm bao
thư trong đó có
số tiền hai trăm
USD tương đương
năm triệu đồng mà
bà định mang đi
vào sau buổi họp
mặt hôm đó để
mừng đám cưới
con trai của bà
bạn thân đã từng
giúp đỡ bà rất
nhiều. Khi phát
hiện ra đã đưa
lộn phong bì, bà
muốn đến bàn thu
ngân xin lại số
tiền đã góp dư
kia, nhưng lại
sợ bị mất thể
diện trước mặt
người khác. Cuối
cùng bà đành
chịu vậy, nhưng
tự trách mình đã
bất cẩn không
kiểm tra phong
bì trước khi nộp
cho thủ quỹ.
Nhiều ngày sau
đó mỗi lần nghĩ
tới là bà lại
cảm thấy nuối
tiếc số tiền đã
lỡ ủng hộ cho
đồng bào bị
thiên tai lũ lụt
ngoài dự tính
kia.
2) GÃ BÁN THỊT
VÀ LÃO ĂN MÀY:
Kho tàng cổ tích
Ả-rập có câu
chuyện vui như
sau: Một gã bán
thịt nướng kia
rất keo kiệt và
khó tính. Một
hôm một lão ăn
mày từ nơi khác
đến ngồi ăn xin
bên cạnh quán
thịt nướng của
gã. Lão ăn mày
đói bụng nhìn
những miếng thịt
nướng trên vỉ
sắt đang bốc
khói, chỉ biết
hít thật sâu để
đón nhận mùi
thịt thơm bay
vào mũi và liên
tục nuốt nước
miếng vì không
có tiền mua
thịt. Cuối cùng
lão nghĩ ra một
kế hay: lão ta
móc trong bị ra
một miếng bánh
mì khô mua từ
ban sáng, lẳng
lặng đến gần lò
than hơ miếng
bánh trên vỉ
thịt, với hy
vọng khói thịt
bốc lên sẽ ám
vào miếng bánh.
Sau đó, lão ta
vui vẻ ăn hết
miếng bánh đã
được ám khói.
Còn gã bán thịt
đang ngồi trong
quán thấy vậy
liền chạy ra túm
lấy áo lão ăn
mày đòi trả
tiền. Bấy giờ
lão ăn mày liền
nói: “Lão đâu có
lấy thịt nướng
nào của anh.
Khói thịt bay
lên đâu phải là
thịt”. Gã bán
thịt hét lớn:
“Khói từ thịt
đang nướng bay
ra là thuộc về
miếng thịt, nên
lão ăn bánh có
ám khói thịt bay
lên cũng phải
trả tiền”. Hai
người cự cãi
không ai chịu
thua ai.
Cuối cùng họ đưa
nhau ra toà yêu
cầu quan tòa cứu
xét. Quan tòa
liền truyền cho
lão ăn mày lấy
ra một đồng tiền
cắc ném mạnh
xuống nền nhà
phát ra một
tiếng “keng”.
Rồi quan toà
phán quyết cho
hai người như
sau: “Lão ăn mày
được quyền hưởng
khói bay ra từ
miếng thịt, còn
anh bán thịt sẽ
hưởng tiếng
“keng” phát ra
từ đồng tiền của
lão ăn mày”.
3) CÁI CHẾT CỦA
CÔ GÁI BÁN DIÊM
NGHÈO KHÓ:
Vào một buổi tối
mùa thu, nhà văn
Anderson đi dạo
phố một mình tại
thủ đô
Copenhague. Ông
bỗng nghe một
giọng nói yếu ớt
từ đằng sau vọng
lại: “Chú ơi,
mua hộ cháu bao
diêm”. Nhà văn
quay lại, chợt
nhận ra một đứa
bé gái, gương
mặt xanh xao,
quần áo nhầu nát
bẩn thỉu. “Chú
ơi mua hộ cháu
bao diêm, cả
ngày cháu chưa
bán được một bao
nào”. Giọng cô
bé thật buồn. Nó
bùi ngùi kể lại
hoàn cảnh đáng
thương của nó.
Mẹ chết sớm, con
bé phải ở với
một người cha
nghiện ngập và
khá cọc cằn,
nhưng nó rất
thương bố nó. Nó
cố lê lết khắp
nơi để bán diêm,
kiếm chút tiền
mang về cho bố
những bữa ăn
ngon. Anderson
xúc động cho con
bé ít tiền. Con
bé sáng rực đôi
mắt và thầm nghĩ
nó sẽ mua về cho
bố tối nay một ổ
bánh mì thật
ngon. “Chú ơi
sao chú tốt với
cháu thế? Chú
tên gì, và chú
làm nghề gì?” –
“Chú tên
Anderson, và chú
làm nghề này”.
Nhà văn vừa nói
vừa khoa tay vẽ
vào khoảng không
hình một cái
bút, ám chỉ ông
là nhà văn. Đứa
bé không hiểu,
tưởng ông làm
nghề bán bút
giống như nó đi
bán diêm vậy.
Anderson hẹn với
đứa bé đến đầu
năm tới, ông sẽ
trở lại và cho
nó một món quà,
còn bây giờ đã
đến lúc ông phải
đi xa.
Nhiều tháng trôi
qua, Anderson
dường như đã
quên lời hứa của
mình. Một bữa
nọ, tình cờ trở
lại Copenhague
và ông chợt nhớ
con bé bán diêm,
nên đã ghé mua
cho nó một chiếc
áo ấm, và đi tìm
để tặng. Tuy
nhiên người chủ
tiệm bên đường
đã cho ông biết
con bé bán diêm
đã chết rồi:
Ngày đầu năm,
người ta thấy nó
nằm chết cóng
bên vệ đường. Nó
nằm chết giữa
một đống bao
diêm, trong đó
có một bao đã
hết nhẵn. Có lẽ
nó đốt diêm để
sưởi cho bớt
lạnh. Có điều là
khi chết, khuôn
mặt nó vẫn còn
hồng hào và
dường như nó
đang mỉm cười
chờ đợi một ai
đó. Anderson
đứng chết lặng.
Người chủ tiệm
nói tiếp: “Khi
mang xác nó đi
người ta thấy
trong túi áo của
nó rơi ra một
vật giống như
chiếc quản bút
làm bằng những
que diêm. Chắc
nó làm để tặng
ai đó tên
Anderson, vì
trên quản bút có
viết hàng chữ
“tặng chú
Anderson”.
Câu chuyện cảm
động trên là một
kỷ niệm buồn
trong cuộc đời
của nhà văn
Anderson. Câu
chuyện này cũng
giống như câu
chuyện về người
đàn bà góa nghèo
trong Tin Mừng
Marcô hôm nay.
Cô bé bán diêm
và người đàn bà
góa có nét giống
nhau: Cả hai đều
là những người
rất nghèo và bị
xã hội bỏ rơi;
tuy vậy cả hai
đều có lòng
quảng đại, biết
cho đi những gì
mình có. Nhưng
điểm giống nhau
căn bản là tuy
nghèo vật chất,
nhưng lại rất
giàu về lòng
nhân ái khi luôn
biết nghĩ đến
người khác.
4) TINH THẦN
NGHÈO CỦA THÁNH
PHAN-XI-CÔ KHÓ
KHĂN:
Một giai thoại
trong cuộc đời
thánh Phanxicô
Assisi đã được
nhà văn Nikos
Kazantzakis viết
thành cuốn tiểu
thuyết nội dung
như sau: Sau khi
Phanxicô đã phân
phát cho người
nghèo tất cả của
cải của mình,
ngài bắt đầu đi
lang thang đó
đây khất thực,
vừa đi đường vừa
ca hát. Một anh
bạn cũ thân quen
thấy vậy đã tỏ
vẻ ngỡ ngàng và
hỏi: “Này
Phanxicô, đôi
giày đắt tiền,
chiếc đồng hồ
quý giá, quần áo
sang trọng của
anh đâu cả
rồi?”. Phanxicô
trả lời: “Tất cả
những thứ đó là
của ma quỷ, tôi
đã trả lại cho
nó tất cả rồi”.
Người bạn hỏi
tiếp: “Anh đi
lang thang đến
đây từ đâu và
anh định sẽ đi
đâu thế?” – “Tôi
đến từ một nơi
rất xa và tôi
cũng đang trên
đường đi về nơi
ấy”. Người bạn
lắc đầu không
hiểu và hỏi
tiếp: “Thế tại
sao anh lại vừa
đi đường vừa hát
nghêu ngao như
một thằng điên
thế?” – “Tôi hát
là để khỏi bị
lạc đường đó
thôi”.
Là những người
đi theo Chúa
Giêsu, chúng ta
cũng rất dễ bị
lạc đường, nếu
chúng ta để cho
của cải vật chất
điều khiển. Điều
quan trọng là
chúng ta phải
phá đổ thới xấu
ích kỷ của mình
để biết quảng
đại cho đi giống
như bà góa trong
Tin mừng hôm
nay.
5) LÒNG QUẢNG
ĐẠI CỦA MỘT ĐÔI
VỢ CHỒNG NGHÈO:
Một cặp vợ chồng
về quê thăm họ
hàng trong ngày
nghỉ lễ. Họ lái
xe được một
quãng đường thì
trời đổ mưa tầm
tã và xe thình
lình bị hư dọc
đường. Đêm đã
khuya và lạnh mà
họ thì lại không
quen thuộc đường
lối. Sau khi đã
hết mưa, họ bèn
bỏ xe, đi bộ đến
gõ cửa một căn
nhà gần đó có
ánh đèn hắt ra.
Khi họ bước vào
thì gặp hai ông
bà già. Trước
lời xin trú ngụ
qua đêm của cặp
vợ chồng, hai
ông bà đã vui vẻ
nói: Được lắm,
chúng tôi có sẵn
một căn phòng
trống. Sáng hôm
sau, cặp vợ
chồng dậy sớm và
chuẩn bị ra đi.
Vì không muốn
quấy rầy chủ
nhà, người vợ để
một số tiền lên
bàn, rồi rón rén
mở cửa bước ra.
Và họ thực sự bỡ
ngỡ khi nhìn
thấy hai ông bà
già đang co ro
nằm ngủ trên sàn
nhà ngoài phòng
khách. Thì ra
hai ông bà già
này đã nhường
chỗ cho cặp vợ
chồng trẻ, còn
mình sẵn sàng
nằm ngủ dưới
đất. Câu chuyện
này giúp chúng
ta hiểu được ý
nghĩa cao quí
của sự hy sinh
và tình yêu
thương của bà
góa thời ngôn sứ
Êlia và bà góa
trong Tin mừng.
Các bà đã cho đi
tất cả những gì
mình có.
3. THẢO LUẬN:
Trong những ngày
này mỗi người
chúng ta có thể
chia sẻ những gì
cụ thể trong tầm
tay của mình cho
những người
nghèo đói bất
hạnh và bị bỏ
rơi để làm vui
lòng Chúa?
4. SUY NIỆM:
1) Hãy quảng đại
dâng cho Chúa
mọi sự thuộc về
mình:
Trong Tin Mừng
hôm nay, Đức
Giê-su đã lên án
thái độ giả dối
của các kinh sư
Do thái và Người
đã dạy môn đệ
phải quảng đại
cho đi, noi
gương bà góa
nghèo nọ đã dâng
hai đồng tiền
kẽm, trị giá một
phần tư đồng bạc
Rô-ma, là số
tiền nhỏ bé bà
dùng để nuôi bản
thân mình trong
một ngày. Bà đã
được Đức Giê-su
đánh giá cao
việc dâng cúng
quảng đại này:
“Thầy bảo thật
anh em: bà góa
nghèo này đã bỏ
vào thùng nhiều
hơn ai hết. Quả
vậy, mọi người
đều rút từ tiền
dư bạc thừa của
họ mà đem bỏ vào
đó. Còn bà này,
thì rút từ cái
túng thiếu của
mình mà bỏ vào
đó tất cả tài
sản, tất cả
những gì bà có
để sống” (Mc
12,43b-44).
Câu chuyện cổ
tích Ả rập về
anh hàng thịt
nướng keo kiệt
đối xử hà khắc
đối với kẻ nghèo
nói trên cũng
vẫn thường hay
xảy ra trong xã
hội hôm nay:
Nhiều lần chúng
ta đã cư xử với
người khác cách
keo kiệt tương
tự. Việt Nam
chúng ta có một
câu chuyện vui
về một ông bố
keo kiệt và tham
ăn như sau:
Một hôm sau một
đêm thức trắng
đánh dậm bắt
được một giỏ
mươi con cá, anh
ta về ngồi bên
bếp than nướng
cá để làm mồi
nhậu lai rai một
mình. Đứa con
trai nhỏ 4 tuổi
ngửi thấy mùi
thơm của cá liền
khóc lóc đòi
được ăn cá. Bà
mẹ liền dỗ dành
cậu con yêu:
“Con hãy nín đi
để mẹ coi xem có
con cá nào nhỏ,
mẹ sẽ xin bố cho
con ăn nhé!”.
Ông bố nghe vậy
liền đáp: “Cho
cái gì? Không có
con cá nào nhỏ
cả, con nào cũng
to bằng nhau
hết!”.
Cũng vậy, nhiều
lần chúng ta
thường né tránh
để khỏi giúp đỡ
tha nhân bằng
câu nói: “Hãy
đợi đấy! Khi nào
làm ăn khá hơn,
tôi sẽ chia sẻ
giúp đỡ cho
anh”. Nhưng sự
chờ đợi ấy sẽ
kéo dài mòn mỏi
không biết phải
chờ đến bao giờ.
Người ta có thể
nêu ra cả ngàn
lý do để biện
minh cho thái độ
vô cảm, thiếu
yêu thương,
không muốn giúp
đỡ tha nhân của
mình.
2) Giá trị của
một hành động
bác ái từ thiện
hệ tại chỗ nào?
- Của
cho không bằng
tấm lòng người
cho: Của nhiều
mà lòng ít thì
không quý bằng
của ít lòng
nhiều. Hai bà
góa thời ngôn sứ
Ê-li-a và thời
Đức Giê-su sở dĩ
được đề cao là
do lòng yêu mến
đối với người
của Chúa và với
công việc nhà
Chúa. Chính lòng
yêu mến đã làm
cho hành động
của hai bà có
giá trị trước
mặt Chúa. Và
Chúa Giê-su đã
khen bà góa
trong Tin Mừng
tuy chỉ bỏ hai
đồng kẽm nhưng
đã dâng Chúa
nhiều hơn tất cả
những người khác
đã bỏ nhiều
tiền. Vì những
người kia dâng
số tiền dư, còn
bà goá này dâng
Chúa tất cả
những gì bà đang
cần.
- Một việc lành
của chúng ta chỉ
thực sự tốt khi
nó được thực
hiện với lòng
mến. Câu chuyện
về người đàn bà
ủng hộ đồng bào
bị lũ lụt nói
trên: Ban đầu bà
đã có quyết định
tốt khi dự định
bỏ thùng ủng hộ
một triệu đồng.
Nhưng khi thấy
nhiều người khác
cũng bỏ vào
thùng một triệu
như vậy, thì bà
liền tăng số
tiền ủng hộ lên
gấp đôi để tỏ ra
quảng đại hơn
người khác. Sau
đó việc rút nhầm
bao thơ 200 đôla
Mỹ tương đương
năm triệu đồng
để bỏ vào thùng
là ngoài ý muốn
của bà, thể hiện
qua việc bà tiếc
nuối và muốn đến
đòi lại số tiền
dư kia, nhưng do
thói sĩ diện
hão, nên đành
chấp nhận số
tiền đã lỡ bỏ
thùng hơn gấp
nhiều lần. Số
tiền bà góp này
cũng không có
giá trị về
thiêng liêng
trước tòa Chúa
phán xét sau này
vì nó không phát
xuất từ tình yêu
tha nhân, mà chỉ
vì thói sĩ diện
hão nhằm để tìm
tiếng khen.
3) Về ba loại
người cho và giá
trị của ba cách
cho:
+ Một là người cho
cách bất đắc dĩ:
Do muốn tránh bị
quấy rầy, nên du
cho mà trong
lòng cảm thấy
bực bội. Loại
người này thường
phân trần với
bạn bè: “Mình
ghét hắn ta,
nhưng đành phải
“thí” cho hắn ít
tiền cho xong,
để hắn mau biến
đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho
để làm xong bổn
phận: Loại
người cho này dù
đã cho mà vẫn
không thấy vui.
Họ thường nói
với bạn bè:
“Mình bị rơi vào
hoàn cảnh “tiến
thoái lưỡng
nan”: “Bỏ thì
thương mà vương
thì tội!” Thôi
thì đành giúp đỡ
hắn cho xong của
nợ!”.
+ Ba là cho
vì yêu thương:
Do tự nguyện cho
người nghèo nên
trong lòng người
cho sẽ cảm thấy
vui vẻ. Trường
hợp người được
cho vì một lý do
nào đó không
nhận, thì người
cho sẽ cảm thấy
buồn. Loại người
cho này thường
hay nói với
những người chịu
đau khổ bất
hạnh: “Tôi có
thể giúp gì được
cho bạn?” hoặc:
“Tôi sẵn sàng
chia sẻ những
khó khăn bạn
đang gặp phải”.
Cách cho thứ ba
do này mới đẹp
lòng Chúa và
chúng ta cần
gắng thực hiện
mỗi ngày, để của
lễ chúng ta dâng
sẽ bay lên trước
tôn nhan Chúa và
mang lại hạnh
phúc sau này cho
chúng ta.
4) Hãy tập quảng
đại cho đi noi
gương Chúa Cha:
- Thiên
Chúa Cha chúng
ta đã biểu lộ
một tình yêu
quảng đại để nêu
gương cho chúng
ta:
+ Chúng ta chỉ
cần một bông
hoa, mà Ngài lại
ban cả cánh
rừng.
+ Chúng ta chỉ
cần vài ngụm
nước, mà Ngài
lại ban cho cả
dòng suối.
+ Chúng ta chỉ
cần vài hạt cát,
mà Ngài lại cho
cả bãi biển rộng
dài.
+ Chúng ta chỉ
xin lương thực
hàng ngày, mà
Ngài lại ban cả
Mình Máu Thánh
Chúa Giê-su.
- Chúa Giê-su
phán: “Cho thì
có phúc hơn là
nhận” (Cv
20,35). Mỗi ngày
chúng ta nên
thực hiện một số
việc quảng đại
như PHĂNG-SÍT
BAN-PHUA
(Francis
Balfour) đã liệt
kê một số việc
cụ thể mà các
tín hữu chúng ta
nên thực hiện
như sau:
+ “Món quà đẹp
nhất tặng cho kẻ
thù ghét ta là lòng khoan
dung tha thứ;
+ Quà tặng cho
bạn bè là thái
độ trung
tín và chân
thành,
+ Quà cho các em
nhỏ là tấm gương
bác ái và khiêm
nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho
ông bố trong gia
đình là thái độ tôn
kính và vâng lời,
+ Quà cho bà mẹ
là trái
tim cháy lửa yêu
thương và chia
sẻ công việc nội
trợ,
+ Và cuối cùng,
quà cho mọi
người chung
quanh là nụ
cười thân thiện
kèm theo cái bắt
tay thân ái,
một lời
khen thành thật,
cùng thái độ
lắng nghe và sẵn
sàng đáp ứng nhu
cầunoi gương
Đức Giê-su”.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su.
Cách đánh giá
của Chúa trong
Tin Mừng hôm nay
khác hẳn cách
nhìn nhận sự
việc của chúng
con. Vì “Loài
người nhìn mặt,
còn Chúa lại
nhìn lòng!” (1
Sm 16,7). Chúa
khen bà góa
nghèo đã bỏ tiền
dâng cúng nhiều
hơn ai hết. Dù
số tiền của bà
nhỏ bé, nhưng bà
“đã dâng tất cả
những gì mình có
để nuôi sống
mình”. Bà dâng
do lòng mến Chúa
thôi thúc, nên
đã được Chúa
đánh giá: “Bà đã
bỏ thùng nhiều
hơn ai hết” (Mc
12,43).
Về phần chúng
con: Nhiều khi
chúng con dễ bị chán
nản buông
xuôi việc tốt,
khi không được nhiều người
biết và khen
ngợi... Xin Chúa
thanh luyện ý
hướng khí làm
việc lành của
chúng con. Chúng
con tin rằng:
“Hữu xạ tự nhiên
hương” (x. Mt
6,1-4), nếu công
việc chúng con
làm thực sự tốt
thì sớm muộn
cũng sẽ được
người chung
quanh nhận biết
và họ sẽ ca ngợi
tình yêu của
Thiên Chúa là
Cha chúng con
(x. Mt 5,14-16).
X. HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.
Đ. XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.