.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc
1,39-56
(39) Hồi ấy,
bà Ma-ri-a lên
đường vội vã,
đến miền núi,
vào một thành
thuộc chi tộc
Giuđa. (40) Bà
vào nhà ông
Da-ca-ri-a và
chào hỏi bà
Ê-li-sa-bét.
(41) Bà
Ê-li-sa-bét
vừa nghe tiếng
bà Ma-ri-a
chào, thì đứa
con trong bụng
nhảy lên, và
bà được tràn
đầy Thánh
Thần, (42)
liền kêu lớn
tiếng và nói
rằng: “Em được
chúc phúc hơn
mọi người phụ
nữ, và người
con em đang cưu
mang cũng được
chúc phúc.
(43) Bởi đâu
tôi được Thân
Mẫu Chúa tôi
đến với tôi
thế này? (44)
Vì này đây,
tai tôi vừa
nghe tiếng em
chào, thì đứa
con trong bụng
đã nhảy lên
vui sướng. (45)
Em thật có
phúc, vì đã
tin rằng Chúa
sẽ thực hiện
những gì
Người đã nói
với em”.(46)
Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi
ngợi khen Đức
Chúa, (47)
thần trí tôi
hớn hở vui
mừng vì Thiên
Chúa, Đấng
cứu độ tôi
(48) Phận tỳ
nữ hèn mọn
Người đoái
thương nhìn
tới. Từ nay,
hết mọi đời
sẽ khen tôi
diễm phúc.
(49) Đấng Toàn
Năng đã làm
cho tôi biết
bao điều cao
cả, danh Người
thật chí
thánh chí tôn!
(50). Đời nọ
tới đời kia,
Chúa hằng
thương xót
những ai kính
sợ Người. (51)
Chúa giơ tay
biểu dương sức
mạnh, dẹp tan
phường lòng
trí kiêu căng.
(52) Chúa hạ
bệ những ai
quyền thế.
Ngươi nâng cao
mọi kẻ khiêm
nhường.(53) Kẻ
đói nghèo,
Chúa ban của
đầy dư. Người
giàu có, lại
đuổi về tay
trắng. (54)
Chúa độ trì
Ít-ra-en, tôi
tớ của Người,
(55) như đã
hứa cùng cha
ông chúng ta.
Vì Người nhớ
lại lòng
thương xót,
dành cho tổ
phụ Áp-ra-ham
và cho con
cháu đến muôn
đời”. (56) Bà
Ma-ri-a ở lại
với bà
Ê-li-sa-bét độ
ba tháng, rồi
trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng
gồm ba phần như
sau: Phần I
(39-40): Đức
Ma-ri-a vội vã
lên đường thăm
viếng bà chị
họ
Ê-li-sa-bét.
Hai bà mẹ đều
được chúc phúc
vì đã quảng
đại đáp lời
mời cộng tác
vào chương
trình cứu độ
của Thiên
Chúa. Phần II
(41-46a): Thai
nhi Gio-an trong
dạ mẹ đă hân
hoan nhảy mừng
đón Thai Nhi
Giê-su đến ban
ơn cứu độ. Phần
III (46b-56):
Đức Ma-ri-a dâng
lời kinh
Ma-nhi-phi-cát
ca ngợi t́nh
thương cứu độ
của Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: +
Lên đường vội
vã: Chỉ
một thời gian
ngắn sau biến
cố Truyền tin,
Đức Ma-ri-a đã
vội vã lên
đường đến thăm
bà chị họ
Ê-li-sa-bét
(hay cũng gọi
là I-sa-ve),
mà sứ thần đă
cho biết bà
mới có thai
được 6 tháng.
Bà này đã
chịu tủi hổ
trước mặt
người đời, vì
bị son sẻ không
con. +
Đến miền núi,
vào một thành
thuộc chi tộc
Giu-đa: Thành
mà Đức Ma-ri-a
định tới là
một trong mười
một địa hạt
miền Giu-đê.
Nhiếu người
nghĩ đó là
A-in Ka-rim,
cách thủ đô
Giê-ru-sa-lem 6
cây số về
phía Tây. Con
đừong từ
Na-da-rét đến
A-in Ka-rim dài
150 cây số.
- C
40-41: +
bà vào nhà
ông Da-ca-ri-a
và chào hỏi
bà
Ê-li-sa-bét: Cuộc
gặp gỡ giữa
hai bà mẹ
chính là cơ hội
để thai nhi
Giê-su gặp gỡ
thai nhi Gio-an
là tiền hô của
Người. +
Đứa con trong
bụng nhảy
lên: Gio-an
Tẩy Giả bắt
đầu sứ vụ ngôn
sứ bằng động
tác nhảy mừng
trước Đấng
Thiên Sai
(Mêsia) đang ẩn
mình trong dạ
mẹ, giống như
vua Đa-vít xưa
đă nhảy mừng khi
ra đón Ḥm Bia
Giao Ước.
Truyền thống
coi sự kiện này
là dấu hiệu
Gio-an Tẩy Giả
được khỏi tội
tổ tông
truyền. +
Bà được đầy
ơn Chúa Thánh
Thần: Thánh
Thần đã tác
động khiến bà
Ê-li-sa-bét
nhận biết cô em
họ Ma-ria đang
mang Đấng
Mê-si-a đến
viếng thăm nhà
mình.
- C
42-44: +
Em được chúc
phúc hơn mọi
người phụ nữ
và người con
em đang cưu mang
cũng được
chúc phúc: Bà
Ê-li-sa-bét ca
tụng Ma-ri-a
diễm phúc hơn
mọi phụ nữ,
vì thai nhi
trong lòng
Ma-ri-a là
Đấng được
Thiên Chúa chúc
phúc. +
Bởi đâu tôi
được thân mẫu
Chúa tôi đến
với tôi thế
này?: “Chúa
tôi” ở đây là
danh xưng của
Đấng Mê-si-a.
Nhờ được Thần
Khí tác động mà
bà Ê-li-sa-bét
đã nhận ra
Chúa của mình
là Thai nhi mà
cô em Ma-ri-a
đang cưu mang.
Danh xưng Đức
Giê-su là
“Chúa” được
Tin Mừng Lu-ca
sử dụng đến
40 lần. +
Vì này đây,
tai tôi vừa
nghe tiếng em
chào, thì đứa
con trong bụng
đã nhảy lên
vui sướng: Ê-li-sa-bét
chia sẻ cho
Ma-ri-a sự lạ
mà bà vừa cảm
nghiệm. Đó
cũng là lý do
khiến bà nhận
biết Đức
Ma-ri-a đang cưu
mang Thai Nhi
Cứu Thế.
- C
45: +
Em thật có
phúc, vì đã
tin: Ma-ri-a
đã tin vào
những lời
Chúa phán với
mình khi sứ
thần truyền
tin sẽ được
thực hiện, và
trở thành
người tín hữu
đầu tiên của
thời Tân Ước.
Ngược lại với
ông Da-ca-ri-a
chồng bà vì
không tin và đ̣i
thấy dấu lạ, nên
đã bị câm cho
đến khi các
điều sứ thần
nói xảy ra (x.
Lc 1,20).
- C
46-50: +
“Linh hồn tôi
ngợi khen Đức
Chúa: Sau
khi nghe bà
Ê-li-sa-bét
khen là có
phúc, Ma-ri-a
đã quy hướng
lời ca khen đó
về cho Thiên
Chúa trong bài
kinh “Ngợi khen
Thiên Chúa”
(Magnificat).
Bài này mô
phỏng theo bài
ca mà bà An-na
là mẹ của
ngôn sứ
Sa-mu-en, sau
khi được Đức
Chúa cho sinh
con trai và
mang đứa trẻ
lên Đền Thờ
tại Si-lô thời
Tư tế Ê-li, để
thánh hiến
dâng cho Đức
Chúa (x. 1 Sm
2,1-10). Kinh
này nhấn mạnh
hai đ́ều: Một
là người
nghèo hèn bé
mọn được Chúa
bênh vực (x. Xp
2,3 ; Mt 5,3);
Hai là dân
Ít-ra-en được
Chúa tuyển
chọn và yêu
thương (x. Đnl
7,6). Đức
Ma-ri-a đă hát
lên bài ca này
để bày tỏ ḷng
tri ân của ḿnh
(cc 46-49) và
của toàn dân
It-ra-en (cc
50-55), vì nay
đă đến thời điểm
lời hứa cứu độ
của Đức Chúa
được thực
hiện.
- C
51-55: +
Chúa giơ tay
biểu dương sức
mạnh: Chúa
dùng quyền
năng để can
thiệp và bênh
vực người hèn
yếu (x. Tv
118,15-16). +
Vì Người nhớ
lại lòng
thương xót: Cựu
Ước thường ghi
là “Thiên Chúa
nhớ lại” để
diễn tả việc
Người luôn
trung thành với
lời hứa và thi
hành những lời
Người đă phán
qua các ngôn sứ
(x. St 8,1;
9,15; Xh 2,24).
Lu-ca cũng
không quên ghi
lại lời chúc
tụng như bài ca
của Da-ca-ri-a
trước đó:
“Người nhớ
lại lời xưa
giao ước” (Lc
1,72).
- C
56: +
Ở lại với bà
Ê-li-sa-bét độ
ba tháng: Ở
lại để giúp đỡ
bà chị
Ê-li-sa-bét,
làm các việc
nhà thay cho bà
trong thời kỳ
cuối trước khi
bà sinh con.
Nhưng Đức
Ma-ri-a chỉ phục
vụ đúng mức mà
thôi. +
rồi trở về
nhà: Một
tuần sau ngày
bà Ê-li-sa-bét
sinh nở, sau khi
con trẻ được đặt
tên và chịu phép
Cắt Bì để
được gia nhập
vào dân Ít-ra-en,
thì Đức
Ma-ri-a đă trở
về quê nhà là
thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1)
Lư do nào khiến
Đức Ma-ri-a vội
vă lên đường
viếng thăm bà
chị họ Ê-li-sa-bét?
2) Truyền thống
Công Giáo khẳng
định Gio-an Tẩy
Giả được khỏi
tội tổ tông
truyền từ lúc
nào? 3) Bà
Ê-li-sa-bét được
đầy Thánh Thần
đă gọi Đức
Ma-ri-a bằng
tước hiệu ǵ? 4)
Tại sao bà
Ê-li-sa-bét khen
Đức Ma-ri-a diễm
phúc, khác với
ông Gia-ca-ri-a
chồng bà? 5) Bài
kinh “Ngợi khen
Thiên Chúa”
(Magnificat) có
nguồn gốc thế
nào trong Cựu
Ước và nội dung
gồm những ǵ? 6)
Đức Ma-ri-a ở
lại nhà bà
Ê-li-sa-bét bao
lâu và để làm ǵ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA:
1. LỜI CHÚA:
Bà Ê-li-sa-bét
được tràn đầy
Thánh Thần đă
ca tụng Đức
Ma-ri-a rằng:
“Em được chúc
phúc hơn mọi
người phụ nữ”
(41-42a),... và:
“Em thật có
phúc, vì đã
tin rằng Chúa
sẽ thực hiện
những gì Người
đã nói với em”
(45). Bấy giờ
bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi
ngợi khen Đức
Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A
HÒM BIA CỦA
GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ
Ý NGHĨA CỦA
HÒM BIA GIAO ƯỚC:
Hòm bia hay
Khám Giao Ước
là một chiếc
thùng được
làm bằng gỗ
keo hình chữ
nhật, dài một
thước hai, rộng
bảy tấc rưỡi
và cao bảy tấc
rưỡi. Được
dát bằng vàng
ròng cả trong
lẫn ngoài (x.
Xh 37, 1-2). Bên
trong chứa đựng
hai tấm bia ghi
Mười điều răn
do chính Thiên
Chúa viết và
ban cho dân
It-ra-en qua
trung gian của
Mô-sê trên núi
Khô-rép (x. Xh
20,1-17; Đnl
5,2-21). Về sau
Mô-sê còn viết
sách Luật và
truyền đặt bên
cạnh Hòm Bia
(x. Đnl
31,24-27). Trên
Hòm Bia có một
cái nắp đậy
được gọi là
Nắp Xá Tội.
Hai bên đầu nắp
có hai bức tượng
thần hộ giá (Kê-ru-bim)
bằng vàng gò
đặt đối diện
nhau và cùng
cúi mặt xuống
nắp. Hai tượng
này có cánh
giương lên và
phủ trên nắp
(x. Xh
25,18-20).
Chính nơi Hòm
Bia này mà Đức
Chúa hiện ra
nói chuyện với
dân Người và
đáp lại lời
họ kêu xin (x.
Xh 25,22; 1 Sm
4,4). Trong cuộc
hành trình qua
sa mạc, Hòm
Bia Giao Ước
luôn được
khiêng đi trước
dẫn đường cho
dân Ít-ra-en.
Vua Đa-vít đã
đem cả Hòm Bia
Giao Ước lẫn
Lều Thánh về
Giê-ru-sa-lem
và làm cho thành
này trở thành
trung tâm của
Vương quốc cả
về chính trị
lẫn tôn giáo.
Vua Sa-lô-môn đã
đặt Hòm Bia
Giao Ước vào
nơi Cực Thánh
của Đền Thờ
sau khi xây dựng
xong. Đối với
nhà vua cũng
như toàn dân,
Hòm Bia Giao Ước
mang ý nghĩa
lãnh đạo và
che chở, đồng
thời cũng là
lời khuyến
cáo phải sống
theo thánh ý
Thiên Chúa đang
ngự giữa dân
Người. Sau khi
đế quốc Ba-by-lon
tàn phá Đền
thờ Giê-ru-sa-lem
vào năm 587
trước Công
Nguyên, họ cũng
phá hủy cả
Hòm Bia Giao Ước.
Từ đó tất cả
ý nghĩa của
Hòm Bia Giao Ước
đều chuyển
sang Đền Thờ
thứ hai và thành
thánh Giê-ru-sa-lem,
được coi là
ngai tòa và
là bệ chân của
Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A,
HÒM BIA CỦA
GIAO ƯỚC MỚI:
Trong Tân Ước,
Đức Ma-ri-a được
công nhận là
nơi Thiên Chúa
cư ngụ, giống
như Hòm Bia của
Giao Ươc mới.
Nơi Đức Ma-ri-a,
quyền năng của
Thiên Chúa đã
được tỏ hiện,
đúng như sứ
thần đã nói
với Người:
“Thánh Thần
sẽ ngự xuống
trên Bà và
quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp
bóng trên Bà”
(Lc 1,35). Thực
vậy, vinh quang
Thiên Chúa đã
bao phủ trên
Ma-ri-a giống
như cột mây cột
lửa đã rợp bóng
trên dân
It-ra-en để
bang trợ, phù
giúp dân vượt
qua biển Đỏ về
miền Đất Hứa
(x. Xh
14,19-20). Trong
biến cố Truyền
tin, ngay sau lời
thưa “Vâng” của
Người, Thánh
Thần đã tác
động làm cho
Đức Ma-ri-a thụ
thai mà vẫn còn
trinh khiết,
và Ngôi Lời
Thiên Chúa đã
nhập vào Thai
nhi ấy, trở
thành người có
xác có hồn
giống như
chúng ta (x. Lc
1,38), ngoại
trừ không có
tội. Đó là Mầu
Nhiệm Ngôi Lời
Nhập Thể. Tóm
lại, Đức
Ma-ri-a cũng đựơc
ví như Hòm Bia
của Giao Ước
Mới, nơi mà
“Lời Thiên
Chúa đã trở
nên người phàm
và cư ngụ giữa
chúng ta” (x.
Ga 1,14), và Đức
Giê-su trở thành
Đấng
“Em-ma-nu-en”
Nghĩa là
“Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”
(Mt 1,23). Đức
Ma-ri-a là Mẹ
cưu mang Hài
Nhi Giê-su trong
ḷng, nên Người
cũng được ví
như Hòm Bia
Thiên Chúa.
2) MẸ LUÔN CỨU
GIÚP NHỮNG AI
TIN CẬY KÊU CẦU:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ
(Douglas Hyde)
vốn là một
người vô tín
và thù ghét
đạo Công giáo.
Ông là chủ
bút một tờ
báo lớn ở
nước Anh. Với
tư cách là
chủ bút, ông
nghiên cứu về
Giáo hội để
viết những
bài phê bình
chống đối gay
gắt. Tuy nhiên
một điều lạ
lùng đã xảy
ra, là ông
càng nghiên
cứu về giáo
lý bao nhiêu,
thì tâm trí
ông lại càng
thêm tin tưởng
vào các chân
lý ấy bấy
nhiêu. Tuy vậy
ông vẫn chưa
quyết định dứt
khoát tin theo
đạo ngay.
Một hôm, trên
đường từ nhà
đến tòa soạn
ở trung tâm
thủ đô Luân
Đôn, lúc xe
lửa đến trạm
dừng, Đu-Lớt
thấy tấm biển
ghi “Nhà thờ
Công giáo” ở
bên đường, ông
liền thử vào
bên trong nhà
thờ xem sao.
Ông ngồi vào
hàng ghế ở
cuối nhà thờ
và rồi thắc
mắc tại sao
mình lại có
mặt ở đây?
Bấy giờ ông
thấy một cô
gái bước vào
nhà thờ, nét
mặt âu lo buồn
khổ. Cô ta đi
thẳng đến
trước tòa Đức
Mẹ Hằng Cứu
Giúp bên trái
cung thánh nhà
thờ và quỳ
dưới hình Đức
Mẹ một hồi
lâu. Sau đó, cô
đứng dậy đi
xuống cuối và
ra khỏi nhà
thờ. Khi cô đi
ngang, Đu-lớt
nhận thấy nét
mặt của cô ta
đă bình thản
trở lại chứ
không còn lo âu
sầu năo như khi
mới bước vào nhà
thờ.
Ngay lúc đó
Đu-lớt quyết
định thử làm
theo cô gái là
cũng đến quỳ
trước ảnh Đức
Mẹ. Sau này ông
đă viết trong
cuốn “tôi tin”
(I believed) như
sau: “Tôi không
biết người ta
đã cầu nguyện
với Đức Mẹ
thế nào? Cuối
cùng tôi nghe
thấy chính
mình sắp nói
ra một điều
gì đó thích
hợp. Tuy nhiên
khi bắt đầu
thốt ra thì
tôi lại thấy
lời đó có vẻ
kỳ cục làm
sao! Nhưng điều
này không quan
trọng gì. Tôi
biết rõ là
sự tìm kiếm
bấy lâu nay
của tôi đã
đạt tới
đích... Lúc ra
khỏi nhà thờ,
tôi cố gắng
hồi tưởng lại
những gì tôi
nói và hầu
như tôi bật
cười khi nhớ
lại những lời
ấy. Chúng
giống hệt
những lời ngân
lên trong một
điệu khiêu
vũ!” Cuối cùng
Đu-lớt đă đạt
tới đức tin vào
Chúa Giê-su nhờ
lời chuyển cầu
của Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp.
3) NHỮNG BẰNG
CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN
HỒN XÁC LÊN TRỜI
CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền
thống hay
Thánh Truyền
là ký ức tông
truyền, Giáo
Hội còn dựa
trên một số
đoạn Thánh
Kinh cho thấy
Mẹ Thiên Chúa
liên kết rất
mật thiết với
Con Mình và
luôn chia sẻ
tất cả thân
phận của con,
để xác tín
đặc ân Hồn
Xác Lên Trời
của Mẹ:
+ “Dòng giống
người nữ sẽ
đánh vào đầu
mi” (St
3,14-15): Câu
này có ba
cách hiểu:
Một là “Sự
chiến thắng
của dòng
giống người
đàn bà trên
dòng giống con
rắn” (Bản văn
tiếng Do
Thái). Hai là
“Người đàn bà
sẽ đạp lên
đầu mi” (Bản
văn tiếng La
Tinh), khẳng
định vai trò
của Mẹ Đấng
Mê-si-a trên con
rắn hỏa ngục
là ma quỷ (x. Kh
12,13.17). Ba
là “Người đó
sẽ đánh vào
đầu mi” (Bản
văn Bảy mươi
tiếng Hy Lạp),
được hiểu là Đức
Giê-su, Đấng sẽ
chiến thắng con
rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân
sủng, luôn
được Thiên
Chúa ở cùng”
(x. Lc 1,28):
Đầy ơn phúc
và luôn có
Chúa tức là
hoàn toàn
trong sạch
thánh thiện,
nên Người không
phải chết như
loài người
chúng ta. “Bà
sẽ thụ thai,
sinh một con
trai và đặt
tên là Giê-su”
(Lc 1,31): Đức
Ma-ri-a được
chọn làm Mẹ
Đấng Thiên Sai,
Đấng sẽ thay
vua Đa-vít cai
trị Ít-ra-en
và triều đại
của Người sẽ
luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a
là E-và Mới:
Đã cộng tác
với Đức Giê-su
là A-Đam mới,
để vâng phục
Chúa Cha (x. Rm
5,12-19 ; PI
2,6-11). Mẹ đã
tích cực cộng
tác với Đức
Giê-su trong
cuộc khổ nạn
(x. Ga 19,25),
thì cũng được
dự phần vào
sự phục sinh
vinh quang với
Người.
4) TỪ
TÍN ĐIỀU MẸ
THIÊN CHÚA ĐẾN
MẸ HỒN XÁC
LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban
đầu, các giáo
đoàn tiên khởi
đều tôn kính
Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a. Từ
những đoạn
Thánh Kinh Tân
Ước, đến các
giáo phụ, rồi
Công đồng chung
Ê-phê-sô năm 431
đã tuyên bố
“Đức Ma-ri-a
là Mẹ Thiên
Chúa”. Đã có
những lễ nói
đến lúc chấm
dứt cuộc đời
của Đức
Ma-ri-a như: Lễ
Đức Mẹ An
Giấc
(dormitio), Lễ
Đức Mẹ Chuyển
Biến
(Transitus), Lễ
Đức Mẹ Sinh Ra
Trên Trời
(Natalis), Lễ
Đức Mẹ được
Nâng Lên Trời
(Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức
Mẹ An Giấc
(Dormitio) đã
được long
trọng cử hành
đó đây trong
Giáo Hội Đông
Phương. Nhất
là từ sau Công
đồng chung
Ê-phê-sô năm
431, nhưng mãi
đến thế kỷ
thứ 7, lễ này
mới được du
nhập vào Giáo
Hội Tây Phương.
Từ đó về sau
nhiều thư
thỉnh nguyện
của các giám
mục, các dòng
tu, các nhà
thần học được
gửi đến Đức
Giáo Hoàng để
xin Ngài định
tín về việc
Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời.
Trong Công đồng
Va-ti-ca-nô I,
nhiều nghị
phụ cũng yêu
cầu Đức Thánh
Cha quyết định
điều đó, vì
theo các ngài
thì việc Đức
Mẹ Hồn Xác
Lên Trời có
liên quan mật
thiết với đức
đồng trinh và
chức vụ làm
mẹ Đấng Cứu
Thế của Ngài.
Hơn nữa, vì
Mẹ đã được
cứu chuộc
hoàn toàn, nên
cũng phải
được tôn vinh
toàn diện như
lời thánh
Phao-lô: “Chúng
ta biết rằng:
Thiên Chúa làm
cho mọi sự
đều sinh ích
cho những ai
yêu mến người,
tức là cho
những ai Người
đã biết từ
trước, thì
Người đã tiền
định cho họ
nên đồng hình
đồng dạng với
Con của Người,
để Con của
Người làm
trưởng tử
giữa một đàn
em đông đúc”
(Rm 8,28-29).
Dựa theo các
thỉnh nguyện
thư đó, năm
1946, Đức Pi-ô
12 đã gửi đến
mỗi giám mục
một lá thư và
yêu cầu trả
lời như sau:
“Đức cha và
hàng giáo sĩ,
giáo dân trong
giáo phận của
Đức cha, có
xác tín và
có muốn công
bố việc Đức
Ma-ri-a hồn
xác lên trời
như một tín
điều hay
không?” Hầu
hết các thư
trả lời đều
đồng ý và
thỉnh nguyện
như vậy. Thế
là vào ngày
1.11.1950, Đức
Pi-ô 12 đã long
trọng tuyên bố
tín điều Đức
Ma-ri-a Hồn
Xác Lên Trời
cho toàn thể
Giáo Hội tin
kính và mừng
chung vào ngày
15 tháng 8
hằng năm.
+ Đức Thánh
Cha đã xác
quyết: “Thế
nên Đức Thánh
Mẫu cao cả,
ngay từ đời
đời và do
cùng một
quyết định
tiền định, đã
được kết hợp
với Đức Giê-su
Ki-tô một cách
huyền nhiệm,
vô nhiễm khi
đầu thai, đồng
trinh vẹn sạch
khi làm Mẹ,
cộng tác
quảng đại với
Đấng Cứu Thế,
Đấng đã chiến
thắng hoàn
toàn sự tội
và các hiệu
quả của nó,
thì cuối cùng
để kết thúc
mọi đặc ân
ngài đã được,
Đức Trinh Nữ
cũng đã gìn
giữ khỏi bị
hư nát ở trong
mồ, để nên
giống Con
Mình. Sau khi
chiến thắng
sự chết, ngài
cũng được tôn
vinh trên trời
cả hồn lẫn
xác, nơi Ngài
được sáng
láng làm Nữ
Vương ngự bên
hữu Con ḿnh
là Vua bất tử
của mọi thời”
(trích CGKPV
trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A
LÀ MẸ ĐỨC
GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ
thai và hạ
sinh Đức
Giê-su: Tin
Mừng Lu-ca
thuật lại
việc Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a đã
được Thiên
Chúa tuyển
chọn làm Mẹ
Đấng Cứu Thế
nhờ có Chúa
ở cùng, và
luôn kết hiệp
mật thiết với
Người. Sau lời
thưa “xin vâng”,
Ma-ri-a đã
đuợc thụ thai
mà vẫn bảo
toàn đức trinh
khiết nhờ ơn
Thánh Thần (x.
Lc 1,28-38). Sau
đó Ma-ri-a theo
“Ông Giu-se từ
thành
Na-da-rét miền
Ga-li-lê lên
thành Bê-lem,
miền Giu-đê là
thành vua
Đa-vít, vì ông
thuộc về nhà
và gia tộc vua
Đa-vít. Ông lên
đó khai tên
cùng với
người đã đính
hôn với ông là
bà Ma-ri-a,
lúc ấy đang
có thai. Khi
hai người đang
ở đó, thì bà
Ma-ri-a đã tới
ngày mãn
nguyệt khai
hoa. Bà sinh
con trai đầu
lòng, lấy tã
bọc con, rồi
đặt nằm trong
máng cỏ, vì
hai ông bà
không tìm được
chỗ trong nhà
trọ” (Lc
2,4-7).
2) ĐỨC MA-RI-A
LÀ MẸ HỘI
THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an
viết: “Đứng gần
thập giá Đức
Giê-su có Mẹ
Người, chị của
Mẹ Người là bà
Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng
với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la. Khi
thấy Mẹ và môn
đệ mình thương
mến đứng bên,
Đức Giê-su nói
với Mẹ Người rằng:
“Thưa bà, đây
là con của
Bà”. Rồi Người
nói với môn đệ:
“Đây là mẹ của
anh”. Kể từ
giờ đó, người
môn đệ rước bà
về nhà mình
(Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô
cũng dạy:
“Thiên Chúa đặt
Người làm Đầu
toàn thể Hội
Thánh. Mà Hội
Thánh là thân
thể Đức Ki-tô,
là sự viên
mãn của Người,
Đấng làm cho
tất cả được
viên mãn” (x.
Ep 1,22b-23);
“Người cũng
là đầu của
thân thể, nghĩa
là đầu của
Hội Thánh” (Cl
1,18). Như vậy
Đức Ma-ri-a là
Mẹ của Đức
Giê-su là Đầu,
thì cũng là
Mẹ của thân
thể Đức Giê-su
là Hội Thánh,
trong đó có mỗi
tín hữu chúng
ta.
+ Người nêu
gương khiêm
nhường cho các
tín hữu qua
việc luôn lắng
nghe Lời Chúa,
tìm hiểu ý
Chúa và mau
mắn xin vâng
(x. Lc 1,30-36).
Người cũng nêu
gương bác ái
khi chủ động
thăm viếng bà
chị họ
Ê-li-sa-bét,
đem niềm vui ơn
cứu độ đến
cho gia đình
Gia-ca-ri-a, làm
cho thai nhi
Gio-an “nhảy
mừng’ vì được
khỏi tội tổ
tông truyền.
Sau đó Người
còn ở lại 3
tháng để phục
vụ, giúp đỡ
việc nhà cho
bà Ê-li-sa-bét
trong ba tháng
trước ngày bà
sinh con, rồi
trở về nhà
mình (x. Lc
1,39-56). Người
cũng quan tâm
đến đôi tân hôn
trong bữa tiệc
cưới bị thiếu
rượu tại thành
Ca-na khi cầu
thay nguyện giúp
đội tân hôn với
Đức Giê-su, xin
Người can thiệp
giúp đôi này. Dù
Giờ chưa đến,
nhưng Đức
Giê-su đã làm
dấu lạ đầu
tiên là biến
nước lã trở
thành rượu
ngon để giúp họ
(x. Ga 2,1-11).
3) ĐỨC MA-RI-A
LÀ ĐẤNG ĐẦY ƠN
PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn
phúc và được
Chúa luôn ở
cùng như lời
chào của sứ
thần truyền
tin (x. Lc
1,28).
+ Ma-ri-a có
phúc vì tâm
hồn Mẹ trong
sạch và luôn
kết hiệp với
Chúa.
+ Ma-ri-a có
phúc vì đã
tin: Bà
Ê-li-sa-bét đã
ca tụng Đức
Ma-ri-a rằng:
“Em thật có
phúc, vì đã
tin rằng: Chúa
sẽ thực hiện
những gì Người
đã nói với em”
(Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có
phúc vì được
làm Mẹ Đức
Giê-su. Là Hòm
Bia Giao Ước Mới,
Đức Maria chứa
đựng chính
Ngôi Lời Thiên
Chúa làm người,
để ở cùng
chúng ta (x. Ga
1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất
là có phúc
vì đã trở
thành môn đệ
Đức Giê-su như
Đức Giê-su đã
đáp lại lời
một phụ nữ
khen ngợi người
Mẹ đă có công
sinh thành nuôi
dưỡng Người:
“Đúng hơn phải
nói rằng:
Phúc thay kẻ
lắng nghe và
tuân giữ lời
Thiên Chúa” (Lc
11,27-28). Do
đó, Đức Giáo
Hoàng Phao-lô VI
đã gọi Đức
Ma-ri-a là “môn
đệ tiên khởi
và tuyệt hảo
nhất của Đức
Ki-tô”.
4) ĐỨC MA-RI-A
ĐƯỢC RƯỚC VỀ
TRỜI ĐỂ
CHUYỂN CẦU CHO
CHÚNG TA:
+ Việc Hội
Thánh tuyên bố
tín điều “Đức
Mẹ Hồn Xác
Lên Trời” dạy
chúng ta phải
ý thức về
thiên đàng đời
sau. Chúng ta
chỉ được lên
trời nếu ngay
từ đời này
đã sống theo
Lời Chúa
Giê-su và đi
con đường đau
khổ thập giá
của Người như
Đức Ma-ri-a
xưa.
+ Đức Ma-ri-a
lên trời, nhưng
luôn cầu bầu
cùng Chúa cho
chúng ta là
con cái Người.
Ta hãy xin ơn
được chết lành
trong tay Đức
Mẹ và sau này
được hưởng
hạnh phúc
thiên đàng
cùng Mẹ.
+ “Đến với
Chúa Giê-su nhờ
Mẹ Ma-ri-a” (Ad
Jesum per
Mariam): Chúng
ta cần hiệp cùng
Mẹ Ma-ri-a mỗi
khi cầu nguyện
với Thiên Chúa,
noi gương Hội
Thánh thời sơ
khai (x. Cv
1,14). Ta hãy
gắn bó với
Mẹ và nhờ Mẹ
cầu bầu cùng
Chúa ban ơn
lành hồn xác
cho ta như Mẹ
đã làm cho đôi
tân hôn tại tiệc
cưới thành
Ca-na xưa (x. Ga
2,3).
+ Sống đức
Tin, Cậy, Mến
với Chúa noi
gương Đức Mẹ:
Tin những Lời
Chúa phán,
tìm hiểu ý
Chúa dạy và
xin vâng ý
Chúa muốn, chấp
nhận mọi may
rủi xảy đến
cho ta với
lòng cậy trông
phó thác.
4. THẢO LUẬN:
1) Việc về trời
của Đức Mẹ (Lễ
Mông Triệu) giống
và khác với
việc lên trời
của Chúa Giê-su
(Lễ Thăng Thiên)
ra sao? 2) Ngay
từ bây giờ
chúng ta phải
làm gì để sau
này cũng được
Chúa ban thưởng
hạnh phúc lên
trời với Mẹ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA
NGÔI CỰC
THÁNH. Hôm nay
con cảm tạ
Chúa vì Chúa
đã thực hiện
việc lớn lao
nơi Đức trinh
Nữ Ma-ri-a, là
người con thân
yêu và là nữ
tỳ hèn mọn
của Chúa.
Chúa đã thương
cho Mẹ trở nên
giống Con của
mình là Chúa
Giê-su: nhờ
giữ đức trinh
khiết vẹn
toàn, tâm hồn
không vương
chút bùn nhơ
tội lỗi; Nhờ
biết đặt trọn
niềm tin vào
lời Chúa phán
sẽ được thực
hiện; Nhờ luôn
xin vâng ý
Chúa để trở
thành Mẹ Đấng
Thiên Sai; Nhờ
biết lắng nghe
và thực thi
Lời Chúa; Nhờ
thông phần với
nỗi đau khổ
của Chúa
Giê-su trên
đường thánh
giá... mà Mẹ
Ma-ri-a đã
được Chúa ban
thưởng bội
hậu lên trời
cả hồn lẫn
xác.
2) LẠY ĐỨC
MA-RI-A LÀ MẸ
RẤT NHÂN TỪ.
“Xin hãy nhớ
xưa nay chưa
từng nghe có
người nào
chạy đến cùng
Đức Mẹ, xin
bầu chữa cứu
giúp, mà Đức
Mẹ từ bỏ
chẳng nhậm
lời”. Hôm nay
cùng với Hội
thánh hoàn
cầu, chúng con
long trọng
mừng lễ Mẹ
Hồn Xác Lên
Trời. Xin cho
chúng con biết
chạy đến với
Mẹ trong cơn
gian nan thử
thách: khi bị
thất bại trong
việc làm ăn,
những khi không
biết phải làm
gì để vượt
qua khó khăn...
Trong những
giờ phút đau
thương ấy, xin
cho chúng con
biết chạy đến
nép mình dưới
tà áo Mẹ, để
được Mẹ che
chở ủi an, để
được Mẹ cầu
bầu cùng Chúa
Giê-su, ban cho
chúng con ơn
lành hồn xác.
Nhất là xin
Mẹ đừng để
khi nào chúng
con đi vào con
đường lầm
lạc. Xin dạy
chúng con luôn
lắng nghe Lời
Chúa Giê-su con
yêu của Mẹ,
như Mẹ đă dạy
các gia nhân tại
tiệc cưới
Ca-na: « Người
bảo ǵ, các anh
cứ việc làm theo
» (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI
CHÚNG CON.