HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN B

Kn 7,7-11 ; Dt 4,12-13 ; Mc 10,17-30

TINH THẦN SIÊU THÓAT LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO LÀM MÔN ĐỆ CHÚA

.   

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mc 10,17-30

(17) Đức Giê-su vừa lên đường, th́ có một người chạy đến, qú xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm ǵ để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. (18) Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một ḿnh Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại t́nh, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hăy thờ kính cha mẹ”.(20) Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đă tuân giữ từ thuở nhỏ”. (21) Đức Giê-su đưa mắt nh́n anh ta và đem ḷng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt v́ lời đó và buồn rầu bỏ đi, v́ anh ta có nhiều của cải. (23) Đức Giê-su rảo mắt nh́n xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của th́ khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (24) Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế th́ ai có thể được cứu?” (27) Đức Giê-su nh́n thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người th́ không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa th́ không phải thế, v́ đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. (28) Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đă bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (29) Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, v́ Thầy và v́ Tin Mừng, (30) mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đăi, và sự sống đời đời ở đời sau”.

2. Ư CHÍNH:

Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa ngay từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và tín thác để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Bán gia sản đem phân phát cho người nghèo để biến thành kho báu thiêng liêng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều các môn đệ đă tự nguyện từ bỏ mà đi theo Thầy. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và đời sau sẽ được sự sống muôn đời!”.

3. CHÚ THÍCH:

- C 17-18: + Đức Giê-su vừa lên đường, th́ có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rơ hơn là: “Có một thủ lănh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20). qú xuống trước mặt NgườiĐây là thái độ biểu lộ ḷng tôn kính đối với Đức Giê-su, mà người Do Thái quen làm đối với vị rab-bi mà họ kính trọng. Thưa Thầy nhân lànhKhi gọi Đức Giê-su là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ư ngưỡng mộ Đức Giê-su khi chứng kiến lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ. + tôi phải làm ǵ để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: Sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ư “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giê-su tư vấn giúp anh biết phải làm ǵ để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và chuẩn bị thiết lập. + Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính loài người, Đức Giê-su đă khiêm tốn từ chối không dám nhận ḿnh là « nhân lành “. Không có ai nhân lành cả, trừ một ḿnh Thiên ChúaNgười cho anh ta biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành”.

C 19-20: + Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người...”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về quan hệ phải có giữa người này với người kia. Nêu ra những giới răn này, Đức Giê-su muốn anh thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những việc bổn phận phải làm. + “Tôi đă tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy sự thành tâm, không chút tự măn như là người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu này, anh ta chỉ muốn hỏi: Từ nhỏ đến nay tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều ǵ. Vậy tôi cần làm ǵ để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).

C 21-22: + Đức Giê-su đưa mắt nh́n anh ta và đem ḷng yêu mếnNgười biểu lộ t́nh cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này, Anh chỉ thiếu có một điềuHăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.Rồi hăy đến theo tôi:.Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đă làm, Đức Giê-su khuyên anh hăy làm thêm ba việc này: Một là về bán gia sản để không c̣n bị của cải vật chất ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm theo làm môn đệ Đức Giê-su. Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, v́ anh ta có nhiều của cảiChàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, v́ anh không thể từ bỏ của cải vật chất như Đức Giê-su đ̣i hỏi. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải anh đang chiếm hữu. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn ư muốn nên hoàn thiện.

C 23-25: + Những người có của th́ khó vào nước Thiên Chúa biết bao!” : Câu nói tỏ ư thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị của cải đời này trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên tới sự trọn lành! Các môn đệ sững sờ: Các ông sững sờ kinh ngạc, v́ lời dạy của Đức Giê-su khác hẳn với suy nghĩ xưa nay của các ông: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa ban thưởng cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đă viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc ḍng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Ḍng giống mai sau hưởng phúc lành. Hăy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi v́ Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung...” (Tv 37,25-28). + “Con lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giê-su dùng h́nh ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ bé để dạy rằng: Người giàu có hoặc tham lam coi trọng đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!

C 26-27: + Thế th́ ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giê-su, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng khi nghĩ đến bản thân các ông cũng có ḷng tham lam tiền bạc, nên chắc cũng khó vào được Nước Thiên Chúa, nên các ông đă thốt lên: “Thế th́ ai có thể được cứu!?”. + “Đối với loài người th́ không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa th́ không phải thế, v́ đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”:Đức Giê-su cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những ǵ loài người không thể vượt qua, th́ sẽ chẳng là ǵ trước quyền năng của Thiên Chúa. V́ đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).

c 28-30: + Thầy coi, phần chúng con, chúng con đă bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường đi theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt tḥi cho các ông. Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, v́ Thầy và v́ Tin MừngĐức Giê-su hứa chắc rằng: những ai đă quảng đại từ bỏ của cải, t́nh cảm ruột thịt v́ ḷng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, th́ sẽ được bù đắp lại gấp trăm những ǵ đă dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đ́nh mới là Cộng Đoàn Hội Thánh, sẽ được quản lư các công tŕnh to lớn của Hội Thánh... và cuối cùng c̣n được hưởng hạnh phúc là sự sống đời đời. + cùng với sự ngược đăi:Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo sẽ có những đau khổ mà các ông phải chịu do các đầu mục gây ra, để cùng Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).

4. CÂU HỎI:

1) Thái độ qú gối xuống trước mặt Đức Giê-su của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều ǵ?

2) Tại sao anh ta gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành?”

3) Đức Giê-su kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích ǵ?

4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy t́nh trạng tâm hồn anh thế nào?

5) Đức Giê-su biểu lộ cảm t́nh đối với anh ta ra sao?

6) Ba điều Đức Giê-su dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc ǵ?

7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giê-su dạy mà buồn rầu bỏ đi?

8) Câu Đức Giê-su nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều ǵ?

9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc khi nghe Đức Giê-su cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa?

10) Đức Giê-su c̣n dùng h́nh ảnh nào cho thấy người giàu thật khó vào được Nước Thiên Chúa?

11) Các môn đệ đă thốt lên điều ǵ biểu lộ thái độ hoang mang của các ông?

12) Lời Đức Giê-su trấn an các môn đệ về sức mạnh của ơn Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào của sứ thần trong biến cố Truyền Tin?

13) Đức Giê-su hứa sẽ làm ǵ để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi theo Người?

14) Đức Giê-su muốn ám chỉ điều ǵ qua câu nói: “kèm theo sự ngược đăi?”

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nh́n anh ta và đem ḷng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hăy đến theo Tôi (Mc 10,21).

2. CÂU CHUYỆN:

1) THAM TH̀ THÂM:

Các thợ săn vùng Phi Châu có một lối bắt khỉ rất tài t́nh: Họ bổ đôi trái dừa, moi hết cùi dừa bên trong ra. Ở một nửa vỏ dừa, họ đục một cái lỗ to vừa đủ để con khỉ có thể tḥ tay qua, c̣n nửa kia, họ đặt vào một trái cam chín. Rồi dùng dây kẽm cột chặt hai nửa vỏ trái dừa lại. Tiếp đến, họ dùng dây thừng cột chắc trái dừa này vào một thân cây, và núp vào bụi rậm gần đó ŕnh chờ.

Chẳng bao lâu sau, một chú khỉ đu đưa trên cành cây, đánh hơi được mùi thơm của trái cam phát ra từ trái dừa. Nó đu tới, tḥ tay qua cái lỗ và cầm chắc lấy trái cam chín ở bên trong trái dừa, rồi mau mắn rút tay ra khỏi cái lỗ dừa đó nhưng không thể được, v́ lúc ấy bản tay đang nắm trái cam đă to hơn cái lỗ. Chú khỉ cứ cố gắng rút tay ra mà không để ư đến nguy hiểm đang ŕnh chờ. Lúc ấy, những người thợ săn đă nhào đến quăng lưới để bắt con khỉ bị sập bẫy này. Con khỉ không biết rằng để tránh nguy cơ bị bắt, nó chỉ cần bỏ trái cam đang nắm trong bàn tay là có thể dễ dàng rút tay ra khỏi vỏ dừa và chạy trốn. Lối đánh bắt khỉ này rất hiệu quả, v́ con khỉ do ḷng tham đă không muốn bỏ trái cam mà nó đang nắm giữ. Nếu biết cầu nguyện chắc nó sẽ nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con khỏi bị bắt. Nhưng xin đừng đ̣i con phải bỏ trái cam con đang nắm trong bàn tay”.

Chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng cũng giống như con khỉ trong câu chuyện trên: chỉ biết nắm lấy của cải đang có hơn ước muốn đi theo làm môn đệ Chúa. Đức Giê-su đă chỉ cho anh ta con đường sáng như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng ở trên trời. Rồi hăy đến theo Ta”. (Mc 10, 21b). Nhưng anh ta đă buồn rầu bỏ đi v́ anh không bỏ được ḷng ham mê của cải trần gian đang chiếm hữu.

2) THẾ NÀO LÀ L̉NG THAM?

Một cậu học tṛ tinh nghịch hỏi thầy giáo: “Thầy ơi, tham lam là ǵ?”.

Giáo viên liền nhẹ nhàng đáp: “Để t́m ra câu trả lời, em hăy đến nhà máy sô-cô-la cạnh trường và mang về đây một thanh kẹo sô-cô-la mà em thích nhất nhé. Tuy nhiên, em không được quay lại những chỗ đă đi qua mà chỉ được chọn một thanh kẹo ở phía trước mặt”.

Vâng lời thầy, em học tṛ liền đi tới nhà máy và đến các cửa hàng trưng bày sản phẩm của nhà máy. Thấy cửa hàng đầu tiên trưng bày các thỏi sô-cô-la đẹp mắt, em liền muốn giơ tay ra lấy một thanh. Nhưng lại nghĩ: “Liệu có thanh sô-cô-la nào khác to và ngon hơn thanh này không? » Rồi em tiếp tục bước đi tới các gian hàng khác. Trước mỗi gian hàng chứa đủ loại kẹo sô-cô-la với nhiều mầu sắc h́nh dạng bắt mắt nhưng em không lấy thanh kẹo nào v́ sợ sẽ có nhiều tanh khác ngon hơn ở phía trước. Sau khi đă đi qua mọi gian hàng mà không lấy được một thanh sô-cô-la nào ưa thích nhất. Cuối cùng, em đến gặp thầy giáo với hai bàn tay trắng... Ông thầy nói với em: “Chắc em đă xem thấy nhiều thanh kẹo ưng ư nhưng do muốn có thanh khác vừa ư hơn. Cuối cùng em đă không thể chọn ra thanh kẹo ưng ư nhất phải không? Thái độ đó của em diễn tả thói tham lam đấy”.

Phần lớn chúng ta đều giống như em học tṛ trong câu chuyện trên: Chúng ta luôn “Đứng núi này trông núi kia cao!” nên không bằng ḷng với những ǵ ḿnh đang có. Ḷng tham của con người ví như một cái túi không đáy, nếu ta cứ « bỏ mồi bắt bóng » th́ cuối cùng sẽ chẳng có được ǵ cả.

3) CÁI GIẾNG NƯỚC:

Một vị thiền sư đi ngao du thiên hạ. Một hôm đi đến một vùng cao nguyên th́ ông bị đau nặng và té xỉu nằm trên đường. Ông được bà chủ quán nước trà bên đường nh́n thấy và huy động người nhà ra đưa ông về nhà và tận t́nh chăm sóc. Ba tháng sau vị thiền sư đă b́nh phục. Trước khi lên đường, cảm động trước ḷng tốt của bà chủ quán, vị thiền sư đă đào một cái giếng bên cạnh quán để bà không phải hằng ngày ra tận suối để xách b́nh nước về.

Từ khi dùng nước giếng do vị thiền sư đào để pha trà bán cho khách, nước trà của bà có mùi thơm đặc biệt và vị của trà cũng trở nên rất ngon. Ai uống một lần cũng đều nhớ mùi và phải quay lại. Tiếng lành đồn xa, quán trà của bà goá ngày một đông khách và bà thành người giàu trong vùng

Một hôm vị thiền sư lại có dịp đi ngang và ghé thăm vị ân nhân của ḿnh. Ông thấy quán nước giờ khang trang hơn, nên đă chúc mừng bà. Khi hỏi về cái giếng nước, bà goá liền nói rằng: “Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cứ hay bị cạn, lâu lâu mới có nước lại, nên tôi không đủ nước trà bán cho khách ngày một thêm đông”. Vị thiền sư nghe xong liền nói: “Bà không tốn tiền để đào giếng, nhưng vẫn có nguồn nước tự nhiên do Trời ban cho và kiếm được nhiều tiền, thế mà bà vẫn chưa hài ḷng hay sao?”. Ông cầm bút viết lên tường câu: “Trời đất mênh mông bao la nhưng ḷng tham của con người c̣n lớn hơn thế nữa!” rồi ông lẳng lặng bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Từ ngày ấy giếng nước cạnh quán trà cũng ngày một cạn dần và cuối cùng khô hẳn.

Có lẽ phần đông chúng ta cũng đều có ḷng tham giống như bà goá trong câu chuyên trên khi chúng ta không bao giờ bằng ḷng với những cái ḿnh đang có mà luôn “Được voi đ̣i tiên”. Chúng ta cần nghe Lời Chúa dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ ḿnh khỏi mọi thứ tham lam, không phải v́ dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).

4) COI THƯỜNG TIỀN BẠC LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN:

Một người nhà giàu đă nhận thánh PHI-LIP-PHÊ NÊ-RI làm linh hướng và mỗi tháng đều đến xưng tội với thánh nhân. Ông này vừa giàu có lại vừa muốn nên thánh. Nhưng sau một thời gian không mấy tiến bộ, ông cảm thấy chán nản, không c̣n đến gặp thày như trước. Mấy tháng liền không thấy ông đến, thánh Phi-lip-phê liền đến nhà thăm. Ngài thấy ngôi nhà của ông bài trí rất sang trọng và tại góc pḥng có kê một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, bên trong chứa đựng các đồ chén bát nhiều kiểu dáng đẹp quư giá. Thấy trên tường pḥng khách có treo một cây thánh giá cao quá tầm tay, ngài liền nói với ông: “Tôi thấy ông cao lớn. Vậy ông thử đứng với tay lên xem có chạm được tới cây thánh giá trên tường kia không?”. Dù đă cố gắng hết sức, nhưng ông nhà giàu vẫn không sao với tay tới được cây thánh giá. Bấy giờ thánh nhân liền cùng với ông kéo chiếc tủ gỗ ở góc pḥng làm bệ kê và lần này ông nhà giầu đă dễ dàng chạm tới được cây thánh giá.

Khi trở lại chỗ ngồi, thánh nhân mới nói như sau: “Để có thể nên thánh giống như Chúa Giê-su, điều quan trọng nhất là ông phải coi của cải như bệ kê chân để đến gần Chúa, bằng cách mang chia sẻ tiền bạc cho những người nghèo khổ bất hạnh như Chúa đă nói với người thanh niên trong Tin Mừng rằng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hăy đến theo Tôi” (Mc 10,21).

3. THẢO LUẬN: Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui ḷng một người”, ngoài sự dốc quyết ra, mỗi người chúng ta c̣n phải làm ǵ?

4. SUY NIỆM:

1) Giá trị của đồng tiền:

Cần ư thức về giá trị lớn lao của đồng tiền: Trong cuộc sống hằng ngày, xem ra tiền bạc có sức mạnh lớn lao như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và “Đồng tiền là Tiên là Phật...” v́ đồng tiền có khả năng mang lại cho con người một cuộc sống ấm no hơn. Thực vậy: Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của bản thân như: ăn ở, đi lại, may mặc, học hành, giải trí... Đồng thời tránh trở thành gánh nặng cho gia đ́nh và xă hội nếu rơi vào hoàn cảnh « khố rách áo ôm “, « chạy ăn từng bữa “, v́: “Đói ăn vụng, túng làm liều”.

Nhưng đồng tiền cũng chỉ có giá trị tương đốiTuy nhiên tiền bạc thực ra không có sức vạn năng mà có giới hạn như có người đă nói:

Tiền bạc có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ.

Có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được hạnh phúc.

Có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sức khỏe.

Có thể mua được đầy tớ, nhưng không mua được ḷng trung thành.

Có thể mua được sắc đẹp, nhưng không mua được t́nh yêu...

2) Thái độ của Đức Giê-su đối với tiền bạc của cải:

Gương Chúa làm: Đức Giê-su đă chọn lối sống nghèo khó khi chấp nhận sinh ra trong hang đá giữa bầy chiên cừu tại ngoại ô thành Be-lem. Người đă sống ba mươi năm ẩn dật tại Na-da-rét bằng nghề thợ mộc vất vả. Khi ra giảng đạo trong gần ba năm, Người đă sống cảnh nay đây mai đó như Người đă trả lời cho một người muốn theo làm môn đệ rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu » (Mt 8,20).

Lời Chúa dạy: Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đă đ̣i chàng thanh niên giàu có muốn theo làm môn đệ của Người: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi đến theo tôi” (Mc 10,21).

Người không bảo anh vứt bỏ gia sản đang chiếm hữu vào thùng rác, nhưng dạy anh hăy biến đồng tiền vật chất thành đồng tiền thiêng liêng khi quảng đại phân phát cho những người nghèo, như điều kiện phải làm trước khi theo làm môn đệ của Người: “Hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi” (Mc 10,21).

3) Các tín hữu phải sống tinh thần siêu thoát thế nào?:

Trong thực tế, ngoài các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân theo Chúa để khấn trọn đời phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, c̣n nói chung các tín hữu chúng ta đang sống giữa đời không nhất thiết phải cho đi tất cả tài sản hợp pháp của ḿnh. V́ cũng như mọi người, chúng ta cần có tiền để đáp ứng các nhu cầu chính đáng hằng ngày như: ăn uống, đi lại, học hành, giải trí... để không trở thành gánh nặng cho tha nhân (x 2 Tx 3,8), để không làm mất đi phẩm giá nếu bị “khố rách áo ôm”,... Điều Đức Giê-su muốn các tín hữu phải làm là không làm tôi hai chủ: “Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Chúng ta sẽ không coi tiền bạc là ông chủ, nhưng là đầy tớ, v́: “Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt”.

Bước theo Đức Giê-su hôm nay đ̣i chúng ta phải có lối sống siêu thoát như lời Chúa dạy: « Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về trần gian » (x. Ga 15,18-25). Cần tránh ḷng ham mê của cải bất chính v́ « Cội rễ sinh ra mọi điều ác là ḷng ham muốn tiền bạc » (1 Tm 6,10). Không phải chúng ta chỉ cần từ bỏ một lần, nhưng là từ bỏ mỗi ngày như lời Chúa phán: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập gía ḿnh hằng ngày mà theo tôi” (Mt 16,24).

4) Cụ thể chúng ta cần từ bỏ những ǵ?

Mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ những ǵ ḿnh đang có, nhất là loại trừ các tội lỗi « trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót », nhất là thói tham lam các của cải bất chính, thói ham hưởng thụ các lạc thú xác thịt bất chính.... Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ hăy xét ḿnh xem hôm nay ḿnh đă loại bỏ được một thói hư cụ thể nào. Chẳng hạn: Thói chửi thề, thói thêm chữ « bố mẹ » như trong câu nói « mặc mẹ nó! »; Thói hay chấp nhất lời nói của kẻ khác đi đến cự căi; Sẵn sàng trả lại cho chủ của khi nhặt được đồ vật người khác đánh rơi...

- «Cho th́ có phúc hơn nhận » (Cv 20,35): Tập sống quảng đại bằng cách mỗi ngày quyết tâm sẽ cho người nghèo một vật cụ thể như: tiền bạc, đồ ăn, một việc phục vụ... Nếu chúng ta biết quảng đại chia sẻ và cho đi như thế, th́ Thiên Chúa cũng sẽ ban lại cho chúng ta gấp bội như lời Chúa phán: “Anh em hăy cho, th́ sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đă dằn đă lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. V́ anh em đong bằng cái đấu nào, th́ Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng cái đấu ấy” (Lc 6,38).

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy là do ḷng tham không đáy của con: Là người giàu có, con coi của cải là tài sản riêng ḿnh nên không muốn chia cho người khác. C̣n nếu đang nghèo khó, con lại ước mong trở thành giàu sang để được thỏa măn các đam mê. Xin Chúa giúp con ư thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống phục vụ con người, nhưng lại không mấy bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự cho con. Chúa muốn con trước hết hăy “lo t́m kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. C̣n các cái khác như: ăn ǵ, mặc ǵ, làm ǵ... th́ chính Chúa sẽ giúp cho sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại chia sẻ và phục vụ Chúa trong mọi người, để đáp lại lời Chúa mời gọi chúng con từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. V́: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lănh; Chính lúc quên ḿnh là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Ḥa B́nh).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH

 
 

http://tongiao.online.fr/