.
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc
6,1-6
(1) Đức Giê-su
ra khỏi đó, và
đến nơi quê quán
của Người, có
các môn đệ đi
theo. (2) Đến
ngày Sa-bát,
Người bắt đầu
giảng dạy trong
hội đường. Nhiều
người nghe rất
đỗi ngạc nhiên.
Họ nói: “Bởi đâu
ông ta được như
thế? Ông ta được
khôn ngoan như
vậy nghĩa là làm
sao? Ông ta làm
được những phép
lạ như thế nghĩa
là ǵ? (3) Ông
ta không phải là
bác thợ, con bà
Ma-ri-a, và anh
em của các ông
Gia-cô-bê, Gio-xê,
Giu-đa và Si-mon
sao? Chị em của
ông không phải
là bà con lối
xóm với chúng ta
sao?” Và họ vấp
ngă v́ Người.
(4) Đức Giê-su
bảo họ: “Ngôn sứ
có bị rẻ rúng,
th́ cũng chỉ là
ở chính quê
hương ḿnh, hay
giữa đám bà con
thân thuộc, và
trong gia đ́nh
ḿnh mà thôi”.
(5) Người đă
không thể làm
được phép lạ nào
tại đó. Người
chỉ đặt tay trên
một vài bệnh
nhân và chữa
lành họ. (6)
Người lấy làm lạ
v́ họ không tin.
2. Ư CHÍNH: Sau
một thời gian đi
khắp nơi rao
giảng Tin Mừng
Nước Trời, Đức
Giê-su đă về
thăm quê hương
là làng Na-da-rét.
Dân làng ngạc
nhiên trước lời
giảng khôn ngoan
và thán phục
trước các phép
lạ Người làm ở
khắp nơi. Nhưng
họ lại đặt nghi
vấn về thân thế
ḍng dơi của
Người và không
tin Người có thể
là Đấng Thiên
Sai. v́ họ cứng
ḷng tin nên Đức
Giê-su đă không
làm nhiều phép
lạ tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Đến
nơi quê quán của
Người, có
các môn đệ đi
theo: Đức
Giê-su trở về
quê hương
Na-da-rét của
Người (x. Mt
2,23). Làng này
không mấy nổi
danh, như ông
Na-tha-na-en đă
nhận xét: “Từ
Na-da-rét, làm
sao có cái ǵ
hay được?” (x.
Ga 1,46). Đức
Giê-su về
Na-da-rét để
thăm thân nhân,
và cũng để thi
hành sứ mạng rao
giảng Tin Mừng
Nước Trời ở đó
nữa. + Đến
ngày Sa-bát,
Người bắt đầu
giảng dạy trong
hội đường: Tại
các hội đường Do
Thái, dân làng
có thói quen tập
trung vào ngày
Sa-bát để nghe
các kinh sư đọc
và giải thích
Kinh Thánh.
Trong các buổi
cầu nguyện này,
người ta cũng
thường hay mời
các kinh sư hay
các bậc vị vọng
đến giảng dạy.
Đức Giê-su đă
nổi tiếng khắp
nơi nên cũng
được mời lên bục
giảng. Dân làng
ngạc nhiên về
giáo lư của
Người, nhất là
khi nghe biết
các phép lạ
Người đă từng
làm tại thành
Ca-phác-na-um
gần đó.
- C
3: + Là
bác thợ: Nhưng
rồi dân làng
Na-da-rét lại tỏ
vẻ khinh thường
nghề thợ mộc mà
Đức Giê-su đă
học nơi cha nuôi
là Giô-xép. + Con
bà Ma-ri-a: Họ
không nhắc đến
Giô-xép (hay Giu-se),
có lẽ v́ ông đă
qua đời từ lâu,
mà chỉ nhắc đến
bà Ma-ri-a là
một phụ nữ b́nh
thường. + Anh
em của các ông
Gia-cô-bê, Giô-xép,
Giu-đa và Si-mon
sao? Chị em của
ông không phải
là bà con lối
xóm với chúng ta
sao?: Anh
chị em được nêu
tên ở đây chứng
minh gia thế Đức
Giê-su không có
ǵ đặc biệt. Tuy
nhiên, có người
lại dựa vào câu
này để phủ nhận
đức đồng trinh
trọn đời của Đức
Ma-ri-a, v́ theo
họ: ngoài Đức
Giê-su ra, bà
c̣n sinh thêm
nhiều con trai
con gái khác.
Thực ra, anh chị
em nói đây chỉ
là anh chị em bà
con mà thôi (x.
St 13,8; 14,16).
Chẳng hạn: Gia-cô-bê
và Giô-xép là
con của bà
Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát (x. Mt
27,56; Ga
19,25), Giu-đa
là con của ông
Gia-cô-bê (x. Lc
6,16). Ngay từ
ban đầu, Giáo
Hội Công giáo
luôn khẳng định:
Đức Giê-su là
“con trai đầu
ḷng” (x. Lc
2,7) và “Người
con duy nhất”
của Đức Ma-ri-a.
Cũng v́ thế mà
khi sắp tắt thở
trên thập giá
Đức Giê-su đă
trối Mẹ Người
cho môn đệ Gio-an,
và từ giờ đó Gio-an
đă đón bà về nhà
mà phụng dưỡng
(x. Ga 19,27).
Cuối cùng, nếu
những người này
thực là con của
Đức Ma-ri-a, th́
dân làng đă phải
nói là “các em
trai của ông
ta”, “các em gái
của ông ta”,
thay v́ nói từ
chung chung “anh
em ông” và “chị
em ông”. + Và
họ vấp ngă v́
Người: Theo
Thánh Phao-lô và
thánh Phê-rô th́:
Đối với những kẻ
kiêu căng cứng
ḷng tin, th́
Đức Giê-su đă
trở nên viên đá
chướng ngại (x
Rm 9,33; 1 Pr
2,7-8). Tin Mừng
Lu-ca cũng viết
“viên đá bị loại
ra” là Đức Giê-su,
đă trở nên “viên
đá góc”. Phàm ai
ngă xuống đá này,
kẻ ấy sẽ tan
xương; Đá này
rơi trúng ai, sẽ
làm người ấy nát
thịt” (Lc
20,18).
- C 4-6: + “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng...”: Câu
này tương tự như
câu: “Bụt nhà
không thiêng!”.
Dân làng Na-da-rét
đă vấp ngă trước
những yếu tố
nhân loại của
Đức Giê-su như:
Làm nghề thợ mộc
là nghề tay chân
hèn kém. Các
thân nhân của
Người cũng chỉ
là người b́nh
dân... Đó là các
chướng ngại
khiến dân làng
Na-da-rét không
tin Đức Giê-su
là Đấng Thiên
Sai. + Người
đă không thể làm
được phép lạ nào
tại đó: Trước
khi làm một phép
lạ nào, Đức Giê-su
luôn đ̣i người
ta phải có đức
tin. Chẳng hạn:
Người bảo bệnh
nhân: “Này con,
ḷng tin của con
đă cứu chữa con”
(Mc 5,34); Người
nói với ông Gia-ia:
“Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi”
(Mc 5,36), hay
nói với người mù
ở Giê-ri-cô:
“Anh hăy đi,
ḷng tin của anh
đă cứu anh!” (Mc
10,52). Tại làng
Na-da-rét, v́
không tin, nên
dân làng đă
không được Đức
Giê-su ban ơn là
đă không làm các
phép lạ như ở
những nơi khác.
4.CÂU HỎI: 1)
Đức Giê-su về
thăm quê hương
Na-da-rét nhằm
mục đích ǵ? 2)
Dân làng tập
trung tại hội
đường vào các
ngày Sa-bát để
làm ǵ? 3) Dân
làng Na-da-rét
đánh giá thế nào
về Đức Giê-su
sau khi nghe
Người giảng dạy?
4) Dân làng có
thành kiến thế
nào về nghề thợ
mộc và về các
thân nhân tầm
thường của Đức
Giê-su? 5) Phải
chăng Đức
Ma-ri-a đă không
trọn đời đồng
trinh, v́ ngoài
Đức Giê-su, Tin
Mừng hôm nay c̣n
kể ra tên nhiều
anh em và chị em
khác của Người?
6) Dân làng
Na-da-rét đă dựa
vào đâu để không
tin Đức Giê-su
là Đấng Thiên
Sai? 7) Tại sao
Đức Giê-su không
làm nhiều phép
lạ tại Na-da-rét
quê hương Người?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ
nói: “Nào ông ta
không phải là
bác thợ, con bà
Ma-ri-a sao?”
(Mc 6,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CẦN LOẠI BỎ
ÓC THÀNH KIẾN VỀ
NGƯỜI KHÁC:
Vào năm 1958,
sau khi Đức Giáo
Hoàng Piô XII
qua đời, giới
truyền thông báo
chí đă mô tả cái
chết của ngài
như một ngôi sao
sáng chói đă lịm
tắt, v́ ngài
xuất thân từ một
gia đ́nh quư tộc,
hấp thụ được một
nền văn học uyên
thâm và đă để
lại nhiều công
tŕnh lớn lao
cho Hội Thánh.
Cơ Mật Viện đă
bầu Tân Đức Giáo
Hoàng Gioan
XXIII lên kế vị.
Vị Giáo Hoàng
này xuất thân từ
một gia đ́nh
nông dân nghèo,
với h́nh dáng
bên ngoài mập
mạp, quê mùa,
chất phát. Người
ta bảo nhau: Đây
chỉ là vị Giáo
Hoàng chuyển
tiếp cho một vị
Giáo Hoàng khác
có tầm cỡ như vị
tiền nhiệm.
Nhưng có ngờ đâu
con người khiêm
tốn, b́nh dân,
giản dị và vui
tươi ấy lại có
sức thu hút mọi
người. Nhất là
ngài đă có công
triệu tập Cộng
đồng Vatican II
và ngài đă trở
thành một “siêu
sao” thời đại,
trổi vượt hơn
các vị giáo
hoàng tiền nhiệm.
Câu chuyên trên
cho thấy: Chúng
ta đừng đánh giá
tha nhân theo
thành kiến, như
dân làng Na-da-rét
xưa đă đánh giá
Đức Giê-su:
“Na-da-rét nào
có cái chi hay!”.
Thế mà Đức Giê-su
làng Na-da-rét
ấy lại chính là
Đấng Thiên Sai
muôn dân trông
đợi.
2)
BỤT NHÀ KHÔNG
THIÊNG:
TA-GO-RE
(1861-1941), một
đại thi hào của
Ấn Độ, đă đoạt
giải No-bel về
văn chương năm
1913 Ông có tài
làm thơ ngay từ
thuở niên thiếu.
Khi ấy thỉnh
thoảng Ta-go-re
đă làm được một
bài thơ và gửi
về ṭa soạn một
tờ báo do thân
phụ ông phụ
trách biên tập.
Khi thấy bài thơ
gửi đến có kư
tên tác giả là
con của ḿnh,
ông bố chẳng
thèm đọc một
ḍng mà quẳng
ngay vào sọt
rác, v́ ông cho
rằng con ông chỉ
là một đứa trẻ
th́ biết ǵ về
thi ca!
Khi hiểu rơ lư
do tại sao bài
ḿnh gửi lại
không được đăng
lên báo,
Ta-go-re liền
chép lại những
bài thơ mà cậu
đă gửi về ṭa
soạn trước đó,
nhưng lần này
cậu đă lấy một
bút hiệu khác
rồi gửi trở lại
toà soạn. Lần
nầy, thân phụ
của Ta-go-re đọc
và nhận thấy đây
là những bài thơ
rất có giá trị,
nên ông đă cho
đăng ngay lên
báo mà không
biết đó là những
bài thơ của cậu
con trai mà
trước đó ông đă
nhiều lần quẳng
vào sọt rác.
Đúng như người
ta thường nói:
“Bụt nhà không
thiêng”, hay như
lời Chúa Giê-su:
“Ngôn sứ có bị
rẻ rúng, th́
cũng chỉ là ở
chính quê hương
ḿnh, hay giữa
đám bà con thân
thuộc, và trong
gia đ́nh ḿnh mà
thôi” (Mc 6, 4).
3) TAI HẠI CỦA
ÓC THÀNH KIẾN:
Có một gánh xiếc
đi lưu diễn tới
vùng quê và đóng
trại tại một khu
rừng gần một
ngôi làng. Vào
một buổi tối
trước giờ gánh
xiếc tŕnh diễn,
bỗng một ngọn
lửa bùng lên tại
một chiếc lều
chứa trang cụ
của gánh xiếc.
Ông giám đốc vừa
chỉ huy việc dập
lửa vừa sai một
anh hề, lúc đó
mới hóa trang
chuẩn bị cho
buổi tŕnh diễn,
đi vào làng gần
bên để yêu cầu
được giúp đỡ dập
lửa. V́
nếu ngọn lửa
cháy lan qua khu
rừng th́ ngôi
làng cũng có
nguy cơ bị hỏa
hoạn.
Anh hề vội vă
chạy nhanh vào
làng. Anh đánh
kẻng báo động
yêu cầu dân làng
mau đến rạp xiếc
giúp dập lửa.
Nhưng dân làng
lại nghĩ đó là
một cách quảng
cáo lôi kéo
người đến xem
xiếc. Anh càng
cố làm nói cho
họ biết thực sự
có hỏa hoạn, th́
họ lại càng cười
và cho là anh
khéo diễn tṛ.
Sau cùng lửa đă
cháy lan nhanh
đến ngôi làng và
thiêu rụi tất cả.
Lư do chính mà
dân làng không
tin lời cảnh báo
là do họ nghĩ
người đưa tin
chỉ là một anh
hề có nhiêm vụ
chọc cười của
gánh xiếc, khiến
họ không cần
biết sự thật anh
hề muốn nói.
Cũng có một sự
tương đồng giữa
câu chuyện nói
trên với câu
chuyện Đức Giêsu
về thăm làng quê
Na-da-rét trong
Tin Mừng. Dân
làng tuy thán
phục lời giảng
của Đức Giê-su,
nhưng lại không
tin Người là
Đấng Thiên Sai,
v́ tưởng đă biết
rơ về gia thế
b́nh thường của
Người.
4) CHINH PHỤC
L̉NG NGƯỜI BẰNG
L̉NG BÁC ÁI
Vào năm 1960,
một cuộc bách
hại đạo Công
Giáo bùng lên
tại nước Su-đăng
bên Phi Châu.
Một sinh viên
Công giáo da đen
tên là TA-BAN đă
bỏ nhà chạy sang
nước láng giềng
U-gan-đa lánh
nạn. Trong thời
gian ở đây,
Ta-ban đă được
nhận vào chủng
viện và 7 năm
sau, anh được
thụ phong linh
mục. Khi t́nh
h́nh ở Su Đăng
lắng dịu, tân
linh mục Ta-ban
quyết định trở
lại quê nhà để
thi hành sứ vụ
linh mục của
ḿnh. Cha được
Bề trên bổ nhiệm
coi sóc một giáo
xứ vùng Pa-lo-ta-ka.
Tuy nhiên, giáo
dân ở đây lại
hoài nghi về
chức linh mục
của cha như lời
cha thuật lại:
“Dân chúng ngờ
vực nh́n tôi và
nói: “Này anh
bạn da đen kia!
Anh nói cái ǵ
vậy? Anh mà là
Linh mục ư? Thật
là khó tin!”.
Thực ra trước
đây, tại Su Đăng
chưa bao giờ
xuất hiện một
linh mục nào
người da đen cả.
Giáo xứ luôn
được các linh
mục thừa sai
người da trắng
đến chăm sóc và
đă chia sẻ cho
họ nhiều thực
phẩm, quần áo và
thuốc men. C̣n
bây giờ cha
Ta-ban lại là
một người da đen
nghèo khó giống
như họ, nên ngài
không có ǵ phân
phát như các
linh mục da
trắng kia. T́nh
h́nh lại càng
phức tạp thêm,
khi cha Ta-ban
bắt đầu canh tân
phụng vụ thánh
lễ theo đường
hướng công đồng
Va-ti-can II.
Giáo dân xầm x́
với nhau: “Ông
linh mục da đen
này c̣n bày đặt
làm lễ bằng
tiếng bản xứ
thay v́ bằng
tiếng la tinh.
Chắc ông ta
không rành tiếng
la tinh nên mới
làm như vậy!
Không biết ông
ta là linh mục
thật hay giả?”.
Phải mất 10 năm,
sau bao nhiêu
vất vả phục vụ
giáo xứ, chịu
đựng bao nhiêu
sự miệt thị và
những lời dè bỉu
khinh dể, cuối
cùng cha Ta-ban
mới được giáo
dân thừa nhận là
Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN:
Trong cuộc sống,
các tín hữu
chúng ta cần ứng
xử thế nào trước
thái độ khinh
thường hay những
lời khích bác
của những kẻ ác
cảm với đạo Công
giáo?
4. SUY NIỆM:
1)"Ông ta không
phải là bác thợ
sao?” :
Đức Giê-su chỉ
là bác thợ mộc
trong làng, sống
bằng đôi tay lao
động vất vả
giống như bao
người khác. Rồi
bà Ma-ri-a mẹ
Người và các anh
chị em của Người
cũng là những
láng giềng thân
quen của dân
làng. Những điều
này đă khiến dân
làng vấp phạm,
không tin Đức
Giê-su là một
Ngôn Sứ, lại
càng không tin
Người là Đấng
Thiên Sai. Thời
Giáo hội sơ
khai, cũng có
một nhân vật tên
là Xen-xút
(Celsus) rất thù
ghét đạo, đă có
lần chế diễu các
Ki-tô hữu như
sau: “Giê-su
Đấng sáng lập
đạo của các
người chỉ là một
gă thợ mộc dốt
nát bần hàn,
xuất thân từ
làng Na-da-rét
tầm thường! Thật
khó mà chấp nhận
được một Đấng
Cứu Thế lại xuất
thân từ một
xưởng gỗ nhỏ bé,
phải vất vả kiếm
sống bằng đôi
bàn tay lao động
hằng ngày như
thế!”
Chúng ta thường
nghĩ rằng: Thiên
Chúa toàn năng
có thể làm được
mọi sự. Nhưng
Tin Mừng hôm nay
cho thấy Đức Giê-su
là Con Thiên
Chúa lại phải
chịu bó tay
trước sự cứng
ḷng của con
người. Con người
có thể dùng sự
tự do Chúa ban
để từ chối ơn
cứu độ của Chúa,
như dân làng
Na-da-rét xưa do
thành kiến đă
không tin Đức
Giê-su là Đấng
Thiên Sai và
không thèm đón
nhận ơn cứu độ
do Người mang
lại.
2) Người đă
không thể làm
được phép lạ nào
tại đó (Mc
6,5):
Phép lạ là món
quà đặc biệt
Chúa ban cho
loài người,
nhưng người ta
chỉ có thể đón
nhận được phép
lạ khi có đức
tin. Biết bao
điều lạ lùng
Thiên Chúa muốn
thực hiện cho
loài người nhưng
họ đă từ chối,
giống như các
chủ quán ở Be-lem
năm xưa đă xua
đuổi Đấng Cứu
Thế giáng sinh
ra khỏi nhà trọ
của họ như Tin
Mừng đă ghi nhận:
“Người đă đến
nhà ḿnh, nhưng
người nhà chẳng
chịu đón nhận”
(Ga 1,11). Thực
vậy: Đức Giê-su
đến mặc khải
Thiên Chúa là
Cha yêu thương
và Người là Con
Thiên Chúa th́
dân Do thái đă
kết án Người là
kẻ phạm thượng,
là kẻ bị quỷ ám
và điên khùng.
Người đến đem
b́nh an, chân lư
và thiết lập
Nước Trời th́
lại bị họ tố là
xách động quần
chúng và kẻ cầm
đầu bọn phản
loạn. Cuối cùng,
các đầu mục dân
Do thái đă ra
tay bắt bớ và
lên án tử h́nh
cho Người, rồi
họ c̣n làm áp
lực đ̣i Tổng
Trấn Phi-la-tô
phải kết án tử
h́nh thập giá
cho Người.
Ngoài thành kiến
th́ sự cứng ḷng
là nguyên nhân
khiến người ta
cố chấp không
muốn nh́n, không
muốn nghe, không
muốn tin... như
Tin Mừng nói về
sự cứng ḷng tin
của dân Do thái:
“Thế
là đối với họ đă
ứng nghiệm lời
sấm của ngôn sứ
I-sai-a, rằng:
Các ngươi có
lắng tai nghe
cũng chẳng hiểu,
có trố mắt nh́n
cũng chẳng thấy;
v́ ḷng dân này
đă ra chai đá:
chúng đă bịt tai
nhắm mắt, kẻo
mắt chúng thấy,
tai chúng nghe,
và ḷng hiểu
được mà hoán
cải, và rồi Ta
sẽ chữa chúng
cho lành” (Mt
13,13-15).
3) Và họ vấp ngă
v́ Người:
V́ các người
đồng hương biết
rơ về gia cảnh
của Đức Giê-su:
Người chỉ là con
bác thợ mộc
Giu-se và mẹ và
anh em bà con
của Người cũng
đang chung sống
giữa họ. Do đầu
óc thủ cựu đầy
thành kiến nên
họ đă không nhận
ra Thiên tính
nơi Đức Giê-su,
dù họ có thán
phục về tài ăn
nói lưu loát và
về sự hiểu biết
Kinh Thánh của
Người. Một số
người trong bọn
họ cũng đă được
chứng kiến nhiều
phép lạ Đức
Giê-su đă làm ở
thành
Ca-phác-na-um và
các nơi khác để
cứu chữa nhiều
bệnh nhân, xua
trừ quỷ ám, phục
sinh kẻ chết...
Nhưng do kiêu
ngạo và cố chấp,
dân làng
Na-da-rét đă
không tin Đức
Giê-su la Đấng
Thiên Sai. Theo
họ Đấng Thiên
Sai không thể có
lối sống nghèo
khó giản dị,
không thể có cha
mẹ nghèo hèn như
Đức Giê-su, nên
họ đă không tin
Người. Chính thành
kiến đă là một
trở ngại cho
cuộc tiếp xúc
giữa Đức Giêsu
và người đồng
hương. Theo họ
th́ Đấng Thiên
Sai phải là một
nhà lănh đạo
chính trị lỗi
lạ, tài ba, một
vị tướng lănh
cầm quân đánh
giặc bách chiến
bách thắng, hầu
đưa dân tộc Do
Thái lên làm bá
chủ hoàn cầu.
Khi nhận ra Đức
Giêsu không
thích hợp với
với quan niệm
của họ về Đấng
Thiên Sai như
vậy, th́ họ đă
không chấp nhận
Người.
4) “Ngôn
sứ có bị rẻ
rúng, th́ cũng
chỉ là ở chính
quê hương ḿnh”:
Tiên tri hay
ngôn sứ là người
được Thiên Chúa
soi sáng và sai
đến nói cho
người ta nhân
danh Thiên Chúa,
để truyền đạt
các mệnh lệnh
của Ngài cho họ.
Kết quả là:
“hoặc họ nghe,
hoặc họ không
nghe” (Ez 2,5).
Thậm chí, lắm
khi họ c̣n đe
dọa mạng sống
của các ngôn sứ,
nhất là khi các
ông tuyên sấm
cáo trách tội
lỗi của tầng lớp
vua quan. Thánh
Kinh đă ghi lại
lời ngôn sứ
Na-than tố cáo
tội ngoại t́nh,
giết chồng, cướp
vợ của vua Đavít;
hay ngôn sứ
Elia, dám nói
thẳng với vua A-kháp
việc ông vua này
đă giết và chiếm
đoạt tài sản của
Na-bót cách bất
công... Kết quả
là các ngôn sứ
đă bị người đời
hận thù giết hại.
Hôm nay chính
Đức Giê-su cũng
bị các người
đồng hương
Na-da-rét chối
bỏ vai tṛ của
Người, nên Người
đă phải thốt lên:
“Ngôn
sứ có bị rẻ rúng,
th́ cũng chỉ là
ở chính quê
hương ḿnh, hay
giữa đám bà con
thân thuộc, và
trong gia đ́nh
ḿnh mà thôi” (Mc
6,4). Dù bị
khinh thường,
nhưng Đức Giê-su
vẫn luôn chu
toàn sứ vụ như
Tin Mừng thuật
lại: “Người
đă đặt tay trên
một vài bệnh
nhân và chữa
lành họ”. Rồi
Người đi sang
các làng khác mà
rao giảng Tin
Mừng.
Để có đức tin,
chúng ta phải
biết mở rộng tâm
hồn và phải
tránh thái độ
thành kiến, thói
xấu ganh tị là
nguyên nhân cản
lối Chúa đi vào
nhà linh hồn của
ta. Nếu để thành
kiến và thói
ganh tị lấn lướt,
chúng ta sẽ khó
ḷng nh́n thấy
các ưu điểm và
khả năng của tha
nhân. Nếu ta chỉ
dựa trên bằng
cấp, sự nghiệp,
chức quyền và
gia cảnh mà xét
đoán hoặc đánh
giá một người là
chúng ta đă để
cho thành kiến
điều khiển ta.
Thực ra, giá trị
của lời nói hay
việc làm của một
người không tuỳ
thuộc vào họ có
bằng cấp cao, có
sự nghiệp lớn,
có gia cảnh giàu
có. Nếu ta mới
chỉ nghe một vài
lời nói không
hay, hoặc nh́n
thấy một vài
khuyết điểm của
một người để vội
đánh giá không
tốt về họ, th́
đó chẳng phải là
ta đă tỏ ra hẹp
ḥi và xét đoán
hồ đồ sao? Trong
đạo, nếu ta chỉ
nghe vị chủ tế
giảng không lọt
tai, mà ta đă
vội đánh giá vị
đó không tốt và
bỏ đến nhà thờ,
th́ chẳng phải
là ta đă có lối
ứng xử đầy tà
tâm và thành
kiến đó sao?
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Chúa vốn là nhà
giảng thuyết tài
năng, thế mà
Chúa cũng đành
chịu thất bại
trước sự cứng
ḷng tin của
những người đồng
hương Na-da-rét.
Nhiều lần chúng
con cũng phải bị
thất bại khi bị
anh em lương dân
từ chối không
tin và có khi
c̣n thốt ra
những lời xúc
phạm đến Chúa và
Hội Thánh... Xin
ban cho chúng
con ơn kiên nhẫn
chịu đựng những
khó khăn gặp
phải trên đường
rao giảng Tin
Mừng. Cho chúng
con biết tạ ơn
Chúa khi vui
cũng như lúc
buồn, khi thành
công cũng như
lúc thất bại.
Xin cho chúng
con biết không
ngừng tạ ơn Chúa
v́ biết rằng:
“Thất bại là mẹ
thành công”, để
noi gương Chúa
khi xưa cũng đă
từng chịu thất
bại trước sự
cứng tin của
người đồng hương.
Khi ấy Chúa đă
không nản ḷng
thối lui, mà
kiên tŕ đi con
đường “qua đau
khổ vào vinh
quang” theo ư
Chúa Cha, sẵn
sàng chấp nhận
chịu chết và
sống lại, hầu
ban ơn cứu độ
cho loài người
chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.
Đ. XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.