.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc
1,26-38
(26) Bà
Ê-li-sa-bét có
thai được sáu
tháng, th́ Thiên
Chúa sai Sứ thần
Gáp-ri-en đến
một thành miền
Ga-li-lê, gọi là
Na-da-rét, (27)
gặp một Trinh nữ
đă đính hôn với
một người tên là
Giu-se, thuộc
nhà Đa-vít,
Trinh nữ ấy tên
là Ma-ri-a. (28)
Sứ thần vào nhà
Trinh nữ và nói:
“Mừng vui lên,
hỡi Đấng đầy ân
sủng, Đức Chúa ở
cùng Bà”. (29)
Nghe lời ấy, Bà
rất bối rối, và
tự hỏi lời chào
như vậy có nghĩa
ǵ. (30) Sứ thần
liền nói: “Thưa
Bà Ma-ri-a xin
đừng sợ, v́ Bà
đẹp ḷng Thiên
Chúa. (31) Và
này đây Bà sẽ
thụ thai, sinh
hạ một con trai
và đặt tên là
Giê-su. (32)
Người sẽ nên cao
cả và sẽ được
gọi là Con Đấng
Tối Cao. Đức
Chúa là Thiên
Chúa sẽ ban cho
Người ngai vàng
vua Đa-vít, tổ
tiên Người. (33)
Người sẽ trị v́
nhà Gia-cóp đến
muôn đời, và
triều đại của
Người sẽ vô cùng
vô tận”. (34) Bà
Ma-ri-a thưa với
Sứ thần: “Việc
ấy sẽ xảy ra
cách nào, v́ tôi
không biết đến
việc vợ chồng!”
(35) Sứ thần
đáp: “Thánh Thần
sẽ ngự xuống
trên Bà, và
quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp
bóng trên Bà. V́
thế Đấng Thánh
sắp sinh ra sẽ
là thánh, sẽ
được gọi là Con
Thiên Chúa”.
(36) Ḱa bà
Ê-li-sa-bét,
người họ hàng
với Bà, tuy đă
già rồi, mà cũng
đang cưu mang
một người con
trai: Bà ấy vẫn
bị mang tiếng là
hiếm hoi, mà nay
đă có thai được
sáu tháng. (37)
V́ đối với Thiên
Chúa, không có
ǵ là không thể
làm được”. (38)
Bấy giờ Bà
Ma-ri-a nói:
“Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của
Chúa. xin Chúa
cứ làm cho tôi
như lời Sứ thần
nói”. Rồi Sứ
thần từ biệt ra
đi.
2. Ư CHÍNH:
Câu chuyện Sứ
thần Gáp-ri-en
được Thiên Chúa
sai đến truyền
tin cho Trinh nữ
Ma-ri-a giúp
chúng ta nhận
biết t́nh thương
và sự trung tín
của Thiên Chúa
trong việc thực
hiện lời hứa cứu
độ loài người.
Thiên Chúa luôn
đi bước trước
bằng việc ban ơn
cứu độ và muốn
cho loài người
đón nhận ơn ấy.
Qua câu chuyện
truyền tin hôm
nay, thái độ
lắng nghe Lời
Chúa, t́m hiểu ư
Chúa và mau mắn
“Xin vâng” của
Đức Ma-ri-a
chính là thái độ
mà các tín hữu
cần làm khi đọc
kinh lần hạt
trong tháng Mân
Côi này
3. CHÚ THÍCH:
- C 26-27: +
Bà Ê-li-sa-bét
có thai được sáu
tháng: Cách
đây sáu tháng,
ông Da-ca-ri-a
đă được Sứ thần
Gáp-ri-en hiện
đến truyền tin
khi ông đang thi
hành chức vụ tư
tế trong Đền
thờ. Sứ thần hứa
với ông rằng bà
Ê-li-sa-bét vợ
ông sẽ sinh cho
ông một con
trai. Sứ mệnh
của nó là dọn
đường cho Đấng
Thiên Sai.. Quả
vậy, bà
Ê-li-sa-bét đă
có thai trong
lúc tuổi già. Bà
đă ở trong nhà
không tiếp xúc
với ai suốt 5
tháng trời (x.
Lc 1,5-25). Đến
tháng thứ sáu
th́ Sứ thần
Gáp-ri-en tiếp
tục được sai đến
truyền tin cho
Trinh nữ
Ma-ri-a. +
Gáp-ri-en: Là
một trong bảy
Tổng lănh thiên
thần (x. Tb
12,15), trong đó
ba vị được nêu
rơ tên trong Cựu
ước là:
Mi-ka-en,
Ra-pha-en, và
Gáp-ri-en. Tên
của các vị này
có ư nghĩa phù
hợp với sứ mệnh
của mỗi vị như
sau: Mi-ka-en
nghĩa là “Ai
bằng Thiên
Chúa?” (Đn
10,13-21;12,1),
Ra-pha-en nghĩa
là “Thiên Chúa
chữa lành” (Tb
3,17) và
Gáp-ri-en nghĩa
là “Anh hùng của
Thiên Chúa” (x.
Đn 8,16). +
Trinh nữ: hay
thiếu nữ, là một
cô gái chưa lấy
chồng. Riêng về
đức trinh khiết
của Đức Ma-ri-a
đă được gián
tiếp đề cập đến
qua câu ngài
thưa với Sứ
thần: “Việc đó
xảy ra thế nào
được, v́ tôi
không biết đến
người nam” (Lc
1,34). Theo lời
tuyên sấm của
Ngôn sứ I-sai-a
th́: Việc một
hài nhi do một
bà mẹ đồng trinh
thụ thai là dấu
chỉ của Đấng
Thiên Sai (x. Is
7,14). +
đă đính hôn: khi
đính hôn, Giu-se
và Ma-ri-a đă
được luật pháp
công nhận là vợ
chồng, và con
cái sinh ra
trong thời kỳ
này là con chính
thức. Tuy nhiên,
theo phong tục
Do thái th́ việc
kết hôn chỉ hoàn
tất khi bên họ
đàng trai tổ
chức lễ cưới để
đón rước cô dâu
về nhà chồng (x.
Mt 1,18). +
thuộc nhà
Đa-vít: chi
tiết này thêm
vào nhằm chứng
minh Đức Giê-su
là Đấng Cứu Thế
thuộc hoàng tộc
Đa-vít, để ứng
nghiệm lời các
Ngôn sứ đă tiên
báo như: Người
phát xuất từ gốc
tổ phụ Giêsê là
cha của vua
Đa-vít (x.1 Sm
16,3.12) ; Người
sẽ sinh ra tại
Bê-lem là quê
hương của vua
Đa-vít (x. mk
5,1). +
Ma-ri-a: hay
my-ri-am là tên
gọi của nhiều
thiếu nữ Do thái
đương thời. Để
phân biệt khi
trùng tên, người
ta thường thêm
một biệt danh
sau tên gọi.
Chẳng hạn:
Ma-ri-a
Mác-đa-la (x. Lc
8,2-3); Ma-ri-a
Bê-ta-ni-a (x.
Lc 10,39);
Ma-ri-a mẹ
Gia-cô-bê và
Giô-xép (x. Mt
27,56); Ma-ri-a
vợ ông Cơ-lô-pát
(x. Ga 19,25);
Ma-ri-a mẹ
Gio-an (x. Cv
12,12) và Trinh
nữ Ma-ri-a thân
mẫu Đức Giê-su
(x. Ga 19,25).
- C
28-29: +
“mừng vui lên”: Đây
không phải là
kiểu chào thông
thường của người
Do thái, nhưng
là lời chào
trong những
trường hợp đặc
biệt, dành riêng
cho những người
được gặp Thiên
Chúa (x Dcr
9,9). +
“đầy ân sủng”: một
tước hiệu dành
riêng cho
Ma-ri-a, một
người trong sạch
vẹn toàn. Ngài
đă được chọn làm
Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên đă được
Thiên Chúa ban
cho đặc ân vô
nhiễm nguyên tội
và được Chúa
luôn ở cùng. +
“Bà bối rối và
tự hỏi”: khác
với thái độ “bối
rối sợ hăi” của
Dacaria (x. Lc
1,12), Ma-ri-a
chỉ ngạc nhiên
và băn khoăn về
ư nghĩa của Lời
Chúa vừa được Sứ
thần mặc khải
(x. Lc 1,34 và
2,19).
- C
30-33: +
Này đây Bà sẽ
thụ thai, sinh
hạ một con trai
và đặt tên là
Giê-su:Sứ
thần giải thích
cho Ma-ri-a biết
về sứ mệnh làm
mẹ của Hài nhi
Giê-su. Giê-su
nghĩa là “Cứu
Chúa” (x. Mt
1,21) hay là
“Đấng Cứu Thế”
(x. Lc 2,11). +
“Con Đấng Tối
Cao”: Đây
là tước hiệu
thường được áp
dụng cho các vị
vua ḍng tộc
Đa-vít. Sứ thần
ám chỉ Đức
Giê-su là Vua
thuộc nhà
Đa-vít. Người sẽ
lên ngôi cai trị
dân Ít-ra-en, và
triều đại của
Người sẽ vững
bền măi măi.
- C
34: +
so sánh thắc mắc
của Ma-ri-a với
thắc mắc của
Dacaria (x. Lc
1,18):Tuy
cả hai cùng đưa
ra câu hỏi,
nhưng phát xuất
từ hai tâm trạng
khác nhau: câu
hỏi của Dacaria
biểu lộ sự hoài
nghi về quyền
năng Thiên Chúa,
nên ông đă bị
phạt câm, không
nói được. sự cấm
khẩu này là dấu
chỉ cho ông thấy
việc bà
Ê-li-sa-bét vợ
ông sẽ sinh con
là điều chắc
chắn sẽ xảy ra
(x. Lc 1,20).
c̣n lời thắc mắc
của Ma-ri-a th́
biểu lộ ḷng
tin: Ma-ri-a
muốn t́m biết rơ
thánh ư Chúa thế
nào để xin vâng.
do đó, Ma-ri-a
đă được Sứ thần
ca tụng là đấng
“đầy ân phúc
hằng làm đẹp
ḷng Thiên Chúa”
(x. Lc 1,30) và
bà Ê-li-sa-bét
cũng khen ngợi
Ma-ri-a là người
“diễm phúc” v́
đă tin Lời Chúa
phán sẽ được
thực hiện (x. Lc
1,45).+
“Việc ấy xảy ra
cách nào, v́ tôi
không biết đến
người nam!” : “biết”
theo nghĩa Thánh
Kinh có nghĩa là
“sự giao hợp vợ
chồng”. Thắc mắc
của Ma-ri-a ở
đây không chứng
minh Ma-ri-a đă
khấn hay có ư
khấn giữ ḿnh
đồng trinh, v́
động từ “biết” ở
đây th́ hiện
tại. Qua câu
này, Ma-ri-a chỉ
thắc mắc là: làm
sao thực hiện
được việc thụ
thai ngay bây
giờ được, khi mà
Ma-ri-a mới chỉ
đính hôn với
Giu-se để nên vợ
chồng về luật
đời, chứ chưa
được Giu-se tổ
chức lễ cưới đón
rước về nhà
chồng như phong
tục Do thái?
- C
35: +
Sứ thần giải
thích cho
Ma-ri-a hiểu
rằng: V́
được Chúa tuyển
chọn để làm mẹ
Đấng Thiên Sai,
nên Ma-ri-a sẽ
được thụ thai
cách đặc biệt
nhờ quyền năng
Thánh Thần, đúng
như I-sai-a đă
tuyên sấm về
việc Đấng Cứu
Thế sẽ do một
trinh nữ thụ
thai và sinh hạ
(x. Is 7,14). +
“quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp
bóng trên Bà”: Kiểu
nói “rợp bóng”
nhắc lại sự kiện
xảy ra vào thời
Xuất hành, khi
dân Do thái đi
trong hoang địa
trên đường về
Đất Hứa. Bấy giơ
Đức Chúa luôn
hiện diện ở giữa
dân Người, qua
h́nh ảnh của một
cột mây rợp bóng
che phủ nhà tạm
và lều hội ngộ
(x. Xh
40,34-38). Rợp
bóng cũng ám chỉ
sự bang trợ của
Đức Chúa. Như
chim phượng
hoàng giang rộng
đôi cánh để bao
phủ che chở đàn
chim con, th́
Thiên Chúa cũng
giang rộng tay
hùng mạnh để
bang trợ
Ít-ra-en là con
dân của Người
(x. Tv 17,8). +
“Đấng thánh” sắp
sinh ra sẽ là
“thánh”: “Thánh”
nghĩa là thuộc
về Thiên Chúa.
Hài nhi sắp sinh
sẽ được hiến
“thánh”, được
dâng cho Thiên
Chúa để chu toàn
sứ mệnh cứu thế.
- C
36-37: +
ḱa Bà
Ê-li-sa-bét,
người họ hàng
với Bà, tuy đă
già rồi, mà cũng
đang cưu mang
một người con
trai: Để
cho Ma-ri-a thấy
quyền năng cao
cả của Thiên
Chúa, Sứ thần đă
báo cho Ma-ri-a
biết tin về bà
chị họ
Ê-li-sa-bét: tuy
đă cao niên và
hiếm hoi, thế mà
cũng đă được
Thiên Chúa cho
thụ thai con
trai, đến nay
thai nhi đă được
sáu tháng rồi.
- C
38: +
“Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của
Chúa”: khi
tự nhận là “nữ
tỳ của Chúa”,
Ma-ri-a đă biểu
lộ một nhân đức
khiêm nhường và
một ḷng tin yêu
sâu xa đối với
Thiên Chúa.+
“Xin Chúa cứ làm
cho tôi như lời
Sứ thần nói”: Qua
câu này, Ma-ri-a
đại diện nhân
loại để đón nhận
ơn cứu độ do
Thiên Chúa ban.
Thực vậy, ngay
sau lời thưa
“xin vâng” này,
Thánh Thần đă
tác động làm cho
Trinh nữ Ma-ri-a
thụ thai mà
không cần phải
tri giao vợ
chồng (x. Lc
1,34). Rồi Ngôi
Lời “đă xuống
thế làm người”,
nhập vào bào
thai ấy để thành
Đấng
“Em-ma-nu-en”,
nghĩa là “Thiên
Chúa ở cùng
chúng ta” (x. Mt
1,23). Như vậy,
Đức Giê-su chỉ
có một Ngôi là
“Ngôi Con” hay
“Ngôi Lời” Thiên
Chúa, nhưng lại
có hai bản tính
là Thiên Chúa và
người phàm.
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy
Giả hơn Đức
Giê-su bao nhiêu
tuổi?
2) Thánh kinh kể
tên 3 vị Tổng
lănh thiên thần
là những vị nào?
Tên gọi của mỗi
vị có nghĩa thế
nào?
3) Câu nói nào
của Đức Ma-ri-a
cho thấy ngài là
thiếu nữ đồng
trinh? Tại sao
phải nhấn mạnh
sự kiện đồng
trinh trong việc
Đức Ma-ri-a thụ
thai Hài Nhi Cứu
Thế Giê-su?
4) Việc kết hôn
giữa thánh
Giu-se và Đức
Ma-ri-a làm cho
hai người nên vợ
chồng thật hay
chỉ là vợ chồng
giả để che mắt
người đời?
5) Tin Mừng muốn
ám chỉ ǵ khi
viết Giu-se
“thuộc nhà
Đa-vít?”
6) Hăy kể ra một
số tên gọi
Ma-ri-a trong
Tin Mừng kèm
theo tên phụ
Thêm tên phụ sau
tên gọi như vậy
nhằm mục đích
ǵ?
7) Khi chào kèm
tước hiệu “đầy
ân sủng” của Sứ
thần nhằm ám chỉ
đặc ân nào trong
4 đặc ân Thiên
Chúa ban cho Đức
Ma-ri-a?
8) Tên gọi
Giê-su mà Sứ
thần ra lệnh cho
Ma-ri-a đặt cho
con trẻ mang ư
nghĩa ǵ?
9) Tước hiệu
“Con Đấng Tối
Cao” được gán
cho Hài nhi
Giê-su có ư
nghĩa thế nào?
10) Thắc mắc của
ông Da-ca-ri-a
trong Đền thờ (x
Lc 1,18) và thắc
mắc của Ma-ri-a
trong Tin Mừng
hôm nay có giống
nhau không? Ông
Da-ca-ri-a và
Đức Ma-ri-a đă
gặp sự cố ǵ sau
lời thắc mắc?
11) Khi nói
“quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp
bóng trên Bà”,
Sứ thần muốn ám
chỉ điều ǵ?
12) Mầu nhiệm
Ngôi Lời Nhập
Thể xảy ra vào
lúc nào trong
biến cố Truyền
tin?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Bấy
giờ Bà Ma-ri-a
nói: “Linh hồn
tôi ngợi khen
Đức Chúa... Đấng
Toàn Năng đă làm
cho tôi biết bao
điều cao cả.
Danh Người thật
chí thánh chí
tôn!” (Lc
1,46.49).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh chữa
lành bệnh tật
thể xác tâm hồn
của chuỗi Mân
Côi:
Cách đây ít lâu,
tạp chí Reader’s
Digest có kể lại
cuộc gặp gỡ kỳ
thú giữa Mẹ
TÊRÊXA CALCUTTA
và một thương
gia người Mỹ như
sau:
Trên chuyến máy
bay từ CHRITIAMY
về THANASITY,
thương gia trẻ
tên là JIM CAISO
ngồi kề bên Mẹ
TÊRÊSA và một nữ
tu khác. Jim
Caiso nhận ra
ngay khuôn mặt
của người nữ tu
thường được báo
chí nhắc đến.
Khi những người
khách cuối cùng
ngồi vào yên vị
trên máy bay th́
Jim thấy hai
người nữ tu từ
từ rút chuỗi ra
khỏi áo và lâm
râm cầu kinh.
Tuy không phải
là một người
công giáo sùng
đạo nhưng Jim
cũng cảm thấy bị
lôi cuốn bởi sự
cầu kinh của hai
người nữ tu. Khi
máy bay đă lên
cao, Mẹ Têrêsa
quay nh́n người
thanh niên và
hỏi:
- Anh
có thường lần
chuỗi không?
Anh trả lời:
- Thưa
không.
Anh vừa trả lời
th́ Mẹ cầm tay
anh, trao cho
anh tràng chuỗi
rồi mỉm cười
nói:
- Vậy
th́ hăy bắt đầu
lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi
trường Jim vẫn
c̣n cầm trên tay
tràng chuỗi của
Mẹ Tê-rê-sa
Can-quưt-ta. Anh
kể lại cho vợ
nghe cuộc gặp gỡ
với Mẹ Têrêsa và
kết luận như
sau: “Tôi
có cảm tưởng như
ḿnh đă được gặp
một người nữ tu
đích thực của
Chúa”.
Chín tháng sau,
Jim và vợ anh
đến thăm một
người đàn bà đă
từng là bạn của
hai người từ
nhiều năm qua.
Người đàn bà này
bác sĩ cho biết
đă bị ung thư tử
cung. Theo các
bác sĩ, đây là
trường hợp đáng
lo ngại. Nghe
thế, Jim đưa tay
vào túi quần,
rút ra tràng
chuỗi của Mẹ
Tê-rê-sa
Can-quưt-ta và
trao cho người
bạn và nói:
- Chị
cầm lấy cái này,
nó sẽ giúp chị.
Mặc dù không
phải là người
Công giáo, người
bạn này vẫn mở
rộng bàn tay ra
và trân trọng
đón nhận món quà
quí giá ấy. Một
năm sau gặp lại
vợ chồng Jim,
người đàn bà vui
vẻ cho biết bà
đă mang trong
ḿnh tràng chuỗi
trong suốt năm
qua và đă được
khỏi bệnh. Giờ
đây chị trả lại
cho Jim để may
ra có thể c̣n
giúp đỡ được cho
người nào khác.
Trong thời gian
đó, bà chị vợ
của Jim đang bị
khủng hoảng tinh
thần sau cuộc ly
dị, bà cũng muốn
được mượn tràng
chuỗi của Jim.
Sau này bà kể
lại rằng:
- Hằng
đêm, tôi đeo
chuỗi vào người.
Tôi rất cô đơn
và sợ hăi, nhưng
khi mang chuỗi
vào người, tôi
cảm thấy như
đang cầm lấy một
bàn tay thân
yêu.
Tràng chuỗi mầu
nhiệm ấy không
mấy chốc đă được
trao từ tay
người này đến
người khác. Mỗi
khi gặp khủng
hoảng hay bệnh
tật, người ta
thường gọi điện
thoại đến Jim để
mượn cho bằng
được tràng chuỗi
ấy và đều được
ơn lành như ư.
Jim suy nghĩ: phải
chăng tràng
chuỗi có một sức
mạnh lạ lùng,
hay đúng hơn,
tràng chuỗi có
sức mạnh giúp
tất cả những ai
mang tràng chuỗi
ấy canh tân tâm
hồn và đă nhận
được ơn do việc
canh tân mang lại.
Jim chỉ biết
rằng, hễ có ai
ngỏ ư mượn tràng
chuỗi, anh đều
vui vẻ cho mượn,
và luôn căn dặn
họ: “Khi nào
không cần dùng
nữa th́ vui ḷng
cho tôi xin lại,
v́ có thể sẽ có
người khác cần
đến tràng chuỗi
ấy”.
Cuộc sống của
Jim cũng thay
đổi kể từ cuộc
gặp gỡ với Mẹ
Tê-rê-sa
Can-quưt-ta, và
Jim hay chia sẻ
với bạn bè như
sau: “Mẹ
Têrêsa đă mang
tất cả hành lư
của Mẹ chỉ trong
một cái xách tay
nhỏ, Tôi cũng
cảm thấy được
thôi thúc để làm
cho cuộc sống
của ḿnh được
đơn giản hơn.
Tôi luôn nhớ
rằng: điều quan
trọng trong cuộc
sống không phải
là tiền bạc,
danh vọng mà
chính là t́nh
yêu chúng ta
dành cho người
khác”.
2) Đức tin của
Phun-tơn
Ao-dơ-lơ (fulton
oursler) được
hồi phục nhờ Mẹ
MA-RI-A:
Vào một buổi
chiều đông lạnh
giá, Phun-tơn,
một người đă mất
đức tin và bỏ
không đến nhà
thờ nhiều năm,
đang trong tâm
trạng tuyệt vọng
v́ gặp nhiều vấn
đề khó khăn nan
giải. khi đi qua
đại lộ nhà thờ
chính toà của
thành phố Nữu
Ước, tự nhiên
ông cảm thấy có
một sức mạnh vô
h́nh cuốn hút
ông vào trong
nhà thờ và đến
quỳ trước tượng
Đức Mẹ. Sau một
hồi im lặng, tự
nhiên Phun-tơn
cầu nguyện như
sau:
“Lạy Mẹ Ma-ri-a,
có thể chỉ một
giây lát nữa
thôi là con lại
thay đổi ư nghĩ
lúc này để tiếp
tục bài bác chế
diễu việc đạo
đức con đang làm
và quay trở lại
con đường vô tín
của con. Nhưng
bây giờ con cảm
thấy tâm hồn
thật b́nh an, dù
con đang gặp rất
nhiều khó khăn.
Xin Mẹ giúp con
thêm đức tin”. Ngay
lúc đó Phun-tơn
cảm thấy một
điều ǵ đó kỳ
diệu vừa xảy ra
nơi ông và biến
ông trở thành
một người mới:
Ông đă có đức
tin! Từ đó, ông
luôn kết hiệp
với Mẹ Ma-ri-a
để làm chứng cho
Chúa bằng một
cuộc sống khiêm
nhường, cậy
trông phó thác
và đầy vị tha
bác ái.
3. THẢO LUẬN:
Hai câu chuyện
trên cho thấy
chuỗi kinh mân
côi có vai tṛ
nào trong việc
chữa lành bệnh
tật và việc trở
lại với Chúa của
ông Phun-tơn?
4. SUY NIỆM:
1) Vai tṛ của
Mẹ MA-RI-A trong
chương tŕnh cứu
độ của Thiên
Chúa:
Thiên Chúa đă
ban cho loài
người chúng ta
một Đấng Cứu Độ
duy nhất là Chúa
Giê-su. Nhưng
bên cạnh Đức
Giê-su, Thiên
Chúa c̣n ban cho
chúng ta một bà
mẹ hiền đầy t́nh
thương và tích
cực cộng tác với
Đức Giê-su trong
công cuộc cứu độ
loài người là
Thánh Mẫu
Ma-ri-a.
Thực vậy, Mẹ
Ma-ri-a luôn yêu
thương và cầu
bầu cho những ai
đang gặp khốn
khó như Mẹ đă
dạy các người
giúp việc hăy
làm theo lời Đức
Giê-su tại tiệc
cưới thành Ca-na
(x Ga 2,1-11).
Mẹ đă được chính
Chúa Giê-su trăn
trối làm Mẹ của
Hội Thánh mà
tông đồ Gio-an
là đại diện,
trước khi Chúa
tắt thở trên
thập giá (x Ga
19,26-27);
Mẹ cũng thi hành
nhiệm vụ của một
bà mẹ hiền khi
hiệp cùng Hội
Thánh sơ khai
cầu xin Chúa
Thánh Thần hiện
xuống sau khi
Chúa Giê-su lên
trời (x Cv
1,14).
2) Sức mạnh của
Kinh Mân Côi
trong các biến
cố lịch sử của
Hội Thánh:
Trong lịch sử
Hội Thánh, mỗi
khi con thuyền
Hội Thánh gặp
cơn phong ba có
nguy cơ bị ch́m
đắm, chúng ta
lại thấy có bàn
tay trợ giúp của
Mẹ Ma-ri-a.
Vào thế kỷ 12,
thánh Đa-minh đă
được Đức Mẹ hiện
ra ban cho phép
lần hạt Mân Côi,
như một thứ vũ
khí thiêng liêng
nên đă chặn đứng
được làn sóng
lạc giáo
An-bi-doa ở Miền
Nam nước Pháp
đang đe dọa tiêu
diệt Hội Thánh.
Rồi dưới triều
đại Đức Thánh
Cha Piô V, cũng
nhờ phép lần hạt
Mân Côi mà Hội
Thánh một lần
nữa lại tránh
được làn sóng
xâm lược của đạo
quân Hồi Hồi tại
vịnh Lê-păng vào
đầu thế kỷ 16.
Ngày nay, Đức
Ma-ri-a trở
thành sứ giả
được Thiên Chúa
sai đến đă hiện
ra tại nhiều nơi
trên thế giới
vào nhiều thời
điểm khác nhau,
để nhắc nhở Hội
Thánh đi đúng
đường lối của
Chúa Giê-su và
giúp các tín hữu
cải thiện đời
sống, đón nhận
ơn cứu độ do
Chúa Giê-su đem
đến. Ta có thể
kể ra một số địa
danh Mẹ đă hiện
ra như: Lộ Đức
(Pháp),
Pha-ti-ma (Bồ
Đào Nha), La
Vang (Việt Nam),
Mễ du (Nam
Tư)...
3) Việc tông đồ
truyền giáo trở
nên hữu hiệu nhờ
kinh Mân Côi:
Thực ra, việc
biến đổi ḷng
những kẻ tội lỗi
và vô tín để họ
quay về nhận
biết tôn thờ
Thiên Chúa, và
việc xóa bỏ các
tệ nạn xă hội
như ma túy, cờ
bạc, đĩ điếm,
cướp
giật...trong đời
sống mỗi người
sẽ khó ḷng thực
hiện thành công
nếu chỉ dựa vào
khả năng giới
hạn của chúng
ta. Tuy nhiên
điều tưởng chừng
không thể thực
hiện ấy lại
không khó chút
nào đối với
Thiên Chúa, v́:
“Không có ǵ mà
Chúa không làm
được” (Lc 1,37).
Vậy để việc tông
đồ truyền giáo
đạt được kết
quả, các tín hữu
chúng ta cần noi
gương Mẹ Ma-ri-a
kết hiệp mật
thiết với Chúa
Giê-su (x Ga
15,5). Rồi cùng
với Mẹ, chúng ta
sống đức Tin
bằng việc thực
thi đức Cậy và
đức Mến trong
cuộc sống đời
thường như Mẹ
khi xưa. Kinh
Mân Côi chính là
phương cách hữu
hiệu giúp các
tín hữu chúng ta
kết hiệp mật
thiết với Chúa
Giê-su và Đức Mẹ
để chiến thắng
ba thù là ma quỷ
thế gian và tính
xác thịt của mỗi
người.
4) Canh tân kinh
Mân Côi bằng
thêm Lời Chúa
lời cầu kèm theo
việc lành:
Tuy nhiên, việc
đọc kinh Mân Côi
chỉ mang lại
hiệu quả tích
cực nếu chúng ta
biết suy niệm 20
biến cố Vui Sáng
Thương Mừng
trong cuộc đời
Chúa Giê-su kèm
theo lời cầu
nguyên quyết tâm
sống theo gương
Chúa làm và lời
Người dạy, như
Mẹ đă làm xưa:
“C̣n MA-RI-A th́
ghi nhớ những sự
kiện đó và suy
đi nghĩ lại
trong ḷng” (Lc
2,19). Mỗi ngày
chúng ta hăy
thực hành các
việc tốt cụ thể
kèm theo đọc một
chục kinh Mân
Côi theo một
trong 20 mầu
nhiệm. Nhờ đó
chúng ta sẽ ngày
một nên tốt hơn
và có thể chu
toàn được sứ vụ
loan báo Tin
Mừng đă được
Chúa Phục Sinh
trao cho Hội
Thánh trước khi
lên trời.
TÓM LAI: Nhờ
quyết tâm sống
theo Lời Chúa
dạy noi theo
gương mẫu và lời
dạy của Người
như Mẹ Ma-ri-a,
chắc chắn chúng
ta sẽ làm được
những việc lạ
lùng kỳ diệu
vượt quá khả
năng giới hạn
của ḿnh. V́ bấy
giờ chúng ta làm
không bằng sức
riêng, nhưng
bằng sức mạnh
của ơn Chúa giúp
qua lời cầu bầu
đắc lực của Mẹ,
như lời thánh
Phao-lô dă dạy:
“Tôi cảm thấy
vui sướng khi
ḿnh yếu đuối,
khi bị sỉ nhục,
hoạn nạn, bắt
bớ, ngặt nghèo
v́ Đức ki-tô. V́
khi tôi yếu,
chính là lúc tôi
mạnh” (2 Cr
12,10). Chúng ta
cũng sẽ noi
gương Mẹ MA-RI-A
ca tụng ngợi
khen t́nh thương
cứu độ của Thiên
Chúa trong bài
kinh
Ma-nhi-phi-cát:
“Linh hồn tôi
ngợi khen Đức
Chúa...” (Lc
1,46).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa. Mỗi
lần gặp phải
những khó khăn
hoạn nạn xảy
tới, chúng con
thường chỉ biết
kêu trời trách
đất, hoặc tệ hơn
lại t́m đến với
mê tín dị đoan
như coi bói
toán, cầu cơ,
tin đồng cốt...
để t́m sự giúp
đỡ an ủi, đang
khi lẽ ra chúng
con phải cậy vào
ơn Chúa trợ giúp
và sự phù trợ
của Mẹ Ma-ri-a,
như Mẹ đă cầu
bầu cho đôi tân
hôn tại tiệc
cưới thành Ca-na
xưa. Xin Chúa
giúp chúng con
biết nghe lời Mẹ
dạy là hăy lắng
nghe Lời Chúa
Giê-su, t́m hiểu
ư Chúa muốn và
mau mắn xin vâng
như các người
giúp việc trong
tiệc cưới xưa đă
làm.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.