.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
6,24-35
(24) Vậy khi dân
chúng thấy Đức
Giê-su cũng như
các môn đệ đều
không có ở đó,
th́ họ xuống
thuyền đi
Ca-phác-na-um
t́m kiếm Người.
(25) Khi đă gặp
thấy Người ở bên
kia Biển Hồ, họ
nói: “Thưa Thầy,
Thầy đến đây bao
giờ vậy? (26)
Đức Giê-su đáp:
“Thật, tôi bảo
thật các ông:
Các ông đi t́m
tôi không phải
v́ các ông đă
thấy dấu lạ,
nhưng v́ các ông
đă được ăn bánh
no nê. (27) Các
ông hăy ra công
làm việc không
phải v́ lương
thực mau hư nát,
nhưng để có
lương thực
thường tồn đem
lại phúc trường
sinh, là thứ
lương thực Con
Người sẽ ban cho
các ông, bởi v́
chính Con Người
là Đấng Thiên
Chúa Cha đă ghi
dấu xác nhận”
(28) Họ liền hỏi
Người: “Chúng
tôi phải làm ǵ
để thực hiện
những việc Thiên
Chúa muốn?” (29)
Đức Giê-su trả
lời: “Việc Thiên
Chúa muốn cho
các ông làm, là
tin vào Đấng
Người đă sai
đến” (30) Họ lại
hỏi: “Vậy chính
ông, ông làm
được dấu lạ nào
cho chúng tôi
thấy để tin ông?
Ông sẽ làm ǵ
đây? (31) Tổ
tiên chúng tôi
đă ăn man-na
trong sa mạc,
như có lời chép:
Người đă cho họ
ăn bánh bởi
Trời” (32) Đức
Giê-su đáp:
“Thật, tôi bảo
thật các ông:
Không phải ông
Mô-sê đă cho các
ông ăn bánh bởi
trời đâu, mà
chính là Cha tôi
cho các ông ăn
bánh bởi trời,
bánh đích thực.
(33) V́ bánh
Thiên Chúa ban
là bánh từ trời
xuống, bánh đem
lại sự sống cho
thế gian” (34)
Họ liền nói:
“Thưa Ngài, xin
cho chúng tôi
được ăn măi thứ
bánh ấy. (35)
Đức Giê-su bảo
họ: “Chính tôi
là Bánh Trường
Sinh. Ai đến với
tôi, không hề
phải đói. Ai tin
vào tôi, chẳng
khát bao giờ!”
2. Ư CHÍNH: TÔI
LÀ BÁNH HẰNG
SỐNG TỪ TRỜI MÀ
ĐẾN:
Đức Giê-su cảnh
cáo dân chúng đi
t́m Người v́
muốn được ăn thứ
bánh vật chất
mau hư nát. Ngay
cả Man-na thời Xuất
Hành cũng không
phải là bánh bởi
trời thực sự và
không cứu được
cho người ta
khỏi chết. Họ
cần phải đi t́m
Bánh bởi trời
đích thực là Đức
Giê-su, Đấng từ
trời mà đến và
ban sự sống đời
đời cho trần
gian. Bánh Hằng
Sống đó chính là
Ḿnh Máu Đức
Giê-su trong bí
tích Thánh Thể
mà Người sẽ
thiết lập.
3. CHÚ THÍCH:
- C 24-25: + Ca-phác-na-um: Là
một thành phố
thuộc xứ Galilê,
nằm trên bờ biển
hồ Tibêria. Đức
Giê-su lấy thành
Ca-phác-na-um
làm trung tâm
hoạt động suốt
thời gian đi
giảng đạo công
khai. Tại đây,
Người đă nhiều
lần rao giảng
trong các hội
đường (x. Mc
1,21), làm nhiều
phép lạ như: Xua
trừ ma quỷ (x.
Mc 1,23-28),
chữa bệnh cảm
sốt cho nhạc mẫu
Phêrô và nhiều
bệnh nhân khác
(x. Mc
1,29-31.32-34),
chữa lành một
phụ nữ bệnh loạn
huyết 12 năm và
làm cho con gái
ông Gia-ia mới
chết được sống
lại (x. Mc
5,21-43), giảng
về Bánh Hằng
Sống (x. Ga
6,24-66)... Về
sau thành này
cũng là một
trong các thành
của dân Do Thái
bị Đức Giê-su
quở trách, v́ họ
đă được chứng
kiến nhiều phép
lạ Người làm mà
vẫn tỏ thái độ
cứng ḷng không
tin vào Người
(x. Mt
11,23-24). + Khi
đă gặp thấy
Người ở bên kia
Biển Hồ: Sau
phép lạ nhân
bánh ra nhiều
trong hoang địa,
v́ biết dân
chúng muốn tôn
ḿnh làm vua,
nên Đức Giê-su
đă lánh lên núi
một ḿnh (x. Ga
6,15). Sau đó
Người đi trên
mặt nước đến với
thuyền của các
môn đệ và sang
bờ bên kia Biển
Hồ là thành
Ca-phác-na-um.
- C
26-27): +
Các ông đi t́m
tôi không phải
v́ các ông đă
thấy dấu lạ,
nhưng v́ các ông
đă được ăn bánh
no nê: Đức
Giê-su cảnh báo
dân chúng về
động lực đi t́m
Người là do vụ
lợi: để được ăn
bánh no nê mà
không phải vất
vả làm việc. +
Các ông hăy ra
công làm việc
không phải v́
lương thực mau
hư nát, nhưng để
có lương thực
thường tồn đem
lại phúc trường
sinh: Đức
Giê-su chấp nhận
nhu cầu về lương
thực là bánh ăn
vật chất nuôi
sống thân xác,
nên Người đă làm
phép lạ cho họ
được ăn no.
Nhưng Người c̣n
muốn dạy rằng:
Trên thể xác c̣n
có linh hồn tồn
tại măi măi.
Chính Người sẽ
ban cho họ thứ
lương thực nuôi
sống linh hồn là
Bí Tích Thánh
Thể mà Người sắp
thiết lập.+
Con Người: Là
một nhân vật
thần thiêng mà
Ngôn sứ Đa-ni-en
trong một thị
kiến đă xem thấy
đang đứng bên
Thiên Chúa (x.
Đn 7,13-14). Khi
tự xưng ḿnh là
Con Người từ
trời mà đến, Đức
Giê-su muốn cho
người ta thấy
Người là Sứ giả
đích thực của
Chúa Cha, được
Thánh Thần thánh
hiến trở thành
Đấng Thiên Sai
và Thánh Thần sẽ
giúp Đức Giê-su
chu toàn sứ vụ
ấy (x. Lc 4,18 ;
Is 61,1-2). +
Là Đấng Thiên
Chúa Cha đă ghi
dấu xác nhận: Dấu
ấn là một vật
dùng để xác định
nguồn gốc thay
cho chữ kư.
Ngoài việc dấu
ấn được in trên
giấy tờ, bao b́
hay các vật khác
để làm bằng
chứng bảo đảm sự
chân thực, người
ta c̣n dùng dấu
ấn để niêm phong
mồ mả (x. Mt
27,66). Ngoài
ra, dấu ấn hay
ấn tín cũng được
dùng theo nghĩa
bóng như lời
Thánh Phao-lô:
“Chính Người
cũng đă đóng ấn
tín trên chúng
ta và đổ Thần
Khí vào ḷng
chúng ta làm bảo
chứng” (2 Cr
1,22). Câu này
cho thấy Chúa
Cha đă đóng dấu
ấn trên Đức
Giê-su như một
dấu chứng để xác
nhận Người thực
là Đấng Thiên
Sai của Thiên
Chúa.
- C
28-29: +
Chúng tôi phải
làm ǵ?: Đây
là câu hỏi bày
tỏ thiện chí
muốn đáp ứng đ̣i
hỏi của Thiên
Chúa sau khi
nghe giảng Tin
Mừng, như đám
đông đă hỏi ông
Gio-an Tẩy Giả
tại sông Gio-đan
(x. Lc
3,10.12.14), hay
dân chúng hỏi
ông Phê-rô sau
khi nghe ông
giảng vào lễ Ngũ
Tuần tại
Giê-ru-sa-lem
(x.Cv 2,37). +
Tin vào Đấng
Người đă sai
đến: Đấng
Thiên Chúa sai
đến ở đây là Đức
Giê-su.
- C
30-31: +
Ông làm được dấu
lạ nào cho chúng
tôi thấy để tin
ông?: Dù
mới chứng kiến
phép lạ nhân
bánh ra nhiều
vào chiều hôm
trước, nhưng dân
chúng vẫn chưa
thỏa măn. Họ đ̣i
một phép lạ đặc
biệt phát xuất
từ trời để minh
chứng sứ mạng
Thiên Sai của
Người, giống như
Mô-sê xưa đă làm
phép lạ cho
man-na từ trời
mưa xuống để
nuôi dân
Ít-ra-en suốt 40
năm trong sa
mạc, nên man-na
được gọi là bánh
bởi trời. +
Man-na:Phát
xuất do từ
“Mannu?”, nghĩa
là “Cái ǵ
vậy?”, v́ dân
Ít-ra-en không
biết đó là cái
ǵ (x. Xh
16,15). Mô-sê
bảo dân rằng:
“Đó là bánh Đức
Chúa ban cho anh
em làm của ăn!”.
Như vậy, Man-na
chính là lương
thực lạ lùng mà
Đức Chúa đă ban
cho dân
Ít-ra-en, khi họ
đi qua sa mạc về
Miền Đất Hứa (x.
Xh 16,11-18).
Man-na có h́nh
dạng giống như
hạt ng̣, màu
trắng và
mùi vị tựa bánh
tráng tẩm mật
ong (x. Xh
16,31). Trông nó
như nhựa hương.
Dân cứ việc chia
nhau đi lượm,
cho vào cối xay
hoặc cối giă mà
nghiền tán ra,
rồi bỏ vào nồi
nấu bánh (x. Ds
11,7-8). Man-na
là h́nh bóng của
Lời Chúa, là của
ăn được Đức Chúa
ban để dân
Ít-ra-en biết
rằng: “Người ta
sống không chỉ
nhờ cơm bánh, mà
c̣n sống nhờ mọi
Lời do miệng Đức
Chúa phán ra”
(x. Đnl 8,3 ; Mt
4,4). Khi dân
Ít-ra-en vào tới
Đất hứa là xứ
Ca-na-an và bắt
đầu trồng và thu
hoạch được các
loại thổ sản tại
đó, th́ Man-na
không c̣n rơi
xuống nữa (x. Gs
5,12). Cũng vậy,
trong thời gian
lưu lạc trần
gian, các tín
hữu cũng được ăn
lương thực
thiêng liêng là
Ḿnh Thánh Chúa
để đủ sức về tới
Đất Hứa Thiên
Đàng, được tham
dự Bữa Tiệc Cánh
Chung trong Nước
Trời với Đức
Giê-su (x. Lc
22,30), và ngồi
đồng bàn với các
tổ phụ
Áp-ra-ham,
I-xa-ác và
Gia-cóp của dân
Do Thái (x. Mt
8,11).
- C
32-33: +
Không phải ông
Mô-sê đă cho các
ông ăn bánh bởi
trời đâu, mà
chính là Cha tôi: Đức
Giê-su đă giúp
dân chúng hiểu
rơ: Man-na được
ban thời kỳ Xuất
Hành không phải
do Mô-sê, nhưng
do Đức Chúa đă
ban cho dân Ít-ra-en.
Ngoài ra man-na
cũng không thực
sự là Bánh của
Thiên Chúa, mà
chỉ là thứ luơng
thực vật chất
mau hư nát và
chỉ có khả năng
nuôi sống thể
xác mà thôi (x.
Xh 16,19-21), v́
dù đă ăn man-na,
thế mà dân Do
thái cũng vẫn
phải chết (x. Xh
32,33-35). + Bánh
Thiên Chúa ban
là bánh từ trời
xuống, bánh đem
lại sự sống cho
thế gian: Để
được gọi là Bánh
của Thiên Chúa
th́ cần hai đặc
tính là xuất
phát từ trời, và
ban sự sống muôn
đời. Bánh ấy
chính là Đức Giê-su.
Người vừa là
Ngôi Lời vốn ở
trên trời, được
Chúa Cha sai
xuống làm Đấng
Thiên Sai (x. Ga
1,14), và Người
sắp ban Ḿnh Máu
Người làm lương
thực đem lại sự
sống muôn đời
cho người lănh
nhận (x. Ga
6,51).
- C
34-35: +
Chính tôi là
Bánh Trường
Sinh: Kiểu
nói “Tôi là”
thường được Đức
Giê-su dùng và
Tin Mừng Gio-an
đă ghi lại một
số Lời Chúa có
hai tiếng “Tôi
là” như sau:
“Chính tôi là
Bánh Trường
Sinh” (Ga 6,34);
“Tôi là Ánh Sáng
Thế Gian” (x. Ga
8,12; 9,5); “Tôi
là Cửa cho chiên
ra vào” (x. Ga
10,7); “Tôi là
Mục Tử nhân lành”
(x. Ga 10,11) ;
“Tôi là Sự Sống
Lại và là Sự
Sống” (x. Ga
11,25); “Tôi là
Con Đường, là Sự
Thật và Là Sự
Sống” (x. Ga
14,6); “Tôi là
Cây Nho thật”
(x. Ga 15,1).
Trong câu nói
trên, khi khẳng
định: “Chính Tôi
là Bánh Trường
Sinh”, Đức Giê-su
muốn nói về bí
tích Thánh Thể
mà Người sắp lập.
Qua bí tích đó
Người sẽ hóa nên
bánh thiêng nuôi
dưỡng người
dương thế và đem
lại hạnh phúc
vĩnh hằng đời
sau. +
Ai đến với tôi,
không hề phải
đói ; Ai tin vào
tôi, chẳng khát
bao giờ: Người
hứa sẽ ban cho
những ai lănh
nhận bí tích
Thánh Thể được
no thỏa; Cho
những ai đặt
trọn niềm tin
nơi Người thỏa
măn khát vọng
được sống vĩnh
cửu.
4. CÂU HỎI: 1)
Bạn biết ǵ về
thành Ca-phác-na-um?
2) Khi nói lên
động cơ đi t́m
Chúa của dân
chúng là t́m
bánh ăn vật chất,
Đức Giê-su muốn
họ phải t́m kiếm
điều ǵ khi đến
với Người? 3)
Tại sao Đức Giê-su
tự xưng là Con
Người? 4) Đức
Giê-su trả lời
cho dân chúng
biết họ cần phải
làm ǵ sau khi
nghe Người giảng
Tin Mừng? 5) Dân
Do Thái đ̣i Đức
Giê-su làm ǵ để
chứng minh sứ
mạng Thiên Sai
của Người? 6)
Thời Mô-sê danh
từ Man-na ám chỉ
điều ǵ? Man-na
được ban cho ai
ăn và nhằm mục
đích ǵ? Trong
Tân Ước Man-na
ám chỉ điều ǵ?
7) Bánh bởi Trời
thực sự phải có
những đặc tính
nào? 7) Khi tự
xưng “Tôi Là
Bánh Trường
Sinh”, Đức Giê-su
muốn nói ǵ về
Người? 8) Người
hứa ban cho
những ai chịu
phép Thánh Thể
được ơn ǵ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Chính Tôi là
bánh trường sinh.
ai đến với Tôi,
không hề phải
đói. ai tin vào
Tôi, chẳng khát
bao giờ!”
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐÓN NHẬN ĐỨC
TIN NHỜ TIN VÀO
BÍ TÍCH THÁNH
THỂ:
HÉC-MAN KON
(Hermann Cohn)
là người Do Thái
và là một tài
năng xuất chúng
về đàn dương cầm
(Pianô). Anh là
học tṛ xuất sắc
của Phăng Lít
(Franz Liszt),
một nhạc sĩ nổi
tiếng tài hoa
vào lúc đó. Kon
cùng với mấy
người bạn thân
thành lập một
ban nhạc trẻ và
đi đó đây biểu
diễn âm nhạc để
kiếm sống. Sau
khi đă có nhiều
tiền và bị bạn
bè cám dỗ, Kon
đă t́m đến những
nơi hàng quán để
ăn chơi trụy lạc.
Rồi một ngày kia,
một người bạn
thân của Kon là
ca trưởng một ca
đoàn nhà thờ, do
thiếu người đánh
đàn, đă mời Kon
đến đánh đàn
giúp ca đoàn hát
thánh ca trong
một buổi dâng
hoa kính Đức Mẹ
tại nhà thờ.
Buổi dâng hoa
hôm ấy kết thúc
bằng giờ chầu
Ḿnh Thánh Chúa.
Mặc dù không
phải là người
công giáo, nhưng
khi vị chủ sự
ban phép lành
Ḿnh Thánh Chúa,
th́ tự nhiên Kon
cảm thấy như có
một sức mạnh vô
h́nh bắt anh
phải qú gối cúi
đầu thờ lạy Chúa.
Kon không lư
giải được tại
sao lại có hiện
tượng trên. Sau
đó, Kon tiếp tục
đến nhà thờ và
cảm thấy có một
Đấng nào đó hiện
diện ở trong anh,
và thôi thúc anh
đi t́m gặp Chúa
Giê-su. Sau đó
anh xin học đạo
nơi một linh mục
trẻ và được
người bạn ca
trưởng tặng cho
cuốn sách tựa đề
là: “Các kinh
nguyện trong
Thánh lễ”. Kon
đă say sưa đọc
đi đọc lại nhiều
lần phần Kinh
Nguyện Thánh
Thể. Về sau anh
đă chia sẻ kinh
nghiệm gặp Chúa
Giê-su như sau:
“Trong thời thơ
ấu, tôi thường
hay khóc mỗi lần
bị cha mẹ sửa
phạt v́ làm sai
một điều ǵ đó.
Nhưng chưa khi
nào nước mắt tôi
lại chảy ra
nhiều như lúc
bấy giờ. Đột
nhiên tôi nhận
ra các tội lỗi
ḿnh đă phạm bấy
lâu nay, tôi
thấy rơ những sự
xấu xa hèn hạ
của tôi và tôi
nghĩ ḿnh đáng
bị phạt trong
hỏa ngục. Nhưng
sau khi khóc hết
nước mắt, tôi
cảm thấy tâm hồn
b́nh an. Tôi xác
tín rằng: Chúa
nhân lành đă
thấu hiểu ḷng
tôi, đă tha thứ
lỗi lầm cho tôi
để tôi xứng đáng
nên con cái
Người”.
Sau đó, Kon được
học giáo lư và
được chịu phép
rửa tội gia nhập
đạo công giáo,
rồi ông xin nhập
vào ḍng Các-me-lô.
Trong nhà ḍng,
Thầy Kon đă được
học các môn về
triết lư và thần
học, thực tập
các nhân đức, và
bảy năm sau thày
đă được thụ
phong linh mục.
Tân linh mục Kon
đă được nhiều
người công nhận
là một linh mục
đạo đức. Cha
nhiệt thành rao
giảng Tin Mừng
và thường chia
sẻ kinh nghiệm
gặp Chúa cho
những người chưa
biết Chúa. Nhiều
người nhờ tiếp
xúc với cha cũng
gặp được Chúa.
Chính nhờ sự
hướng dẫn của
cha mà cả thầy
dậy đàn là nhạc
sĩ Phăng Lít và
10 bạn thân thời
thơ ấu cũng đă
tin Chúa và xin
gia nhập đạo.
2) TIN CHÚA
GIÊ-SU LÀ BÁNH
TRƯỜNG SINH TH̀
SẼ ĐƯỢC SỐNG
MUÔN ĐỜI:
MÉ-ZE-RAY
(1610-1689) là
một sử gia danh
tiếng của nước
Pháp. Cả đời ông
không tin có
thần thánh. Hơn
nữa ông c̣n coi
đạo công giáo là
mê tín dị đoan.
Năm 1683 lúc ốm
nặng nằm trên
giường bệnh,
biết ḿnh sắp
chết, ông đă nhờ
người nhà mời
linh mục đến dạy
đạo và rửa tội
cho ông. Nghe
tin này, bạn bè
thân thiết rủ
nhau đến thăm và
cùng nhau ngăn
cản ông theo
đạo. Nhưng
Mé-ze-ray đă nói
với họ rằng:
- Này các bạn,
như các bạn đă
biết: Cả đời tôi
không tin tưởng
vào thần thánh.
Nhưng thời gian
nằm trên giường
bệnh chờ thần
chết đến, tự
nhiên tôi thấy
nảy ra trong đầu
óc tôi thắc mắc
này: Tại sao tôi
lại phải chết
giữa lúc c̣n
đang ham sống?
Ai bắt tôi phải
chết giữa lúc
tôi c̣n chưa
muốn chết? Các
bác sĩ thời danh
nhất cũng không
thể chữa cho tôi
khỏi chết được?
Chính các bác sĩ
tuy có thể chữa
cho nhiều người
khỏi bệnh, nhưng
rồi cuối cùng
chính các ông
cũng phải chết!
Thắc mắc này,
khoa học không
thể giải đáp cho
tôi thỏa măn
được, nên tôi đă
đến với đức tin
công giáo và đă
tin vào Thiên
Chúa. Vậy các
bạn hăy tin tôi:
Mé-ze-ray lúc
sắp chết đáng
tin hơn
Mé-ze-ray khi
c̣n khỏe mạnh”.
3) CHIA
SẺ T̀NH
THƯƠNG LÀ CÁCH GIỚI
THIỆU CHÚA TỐT
NHẤT:
Một hôm một lăo
hành khất trên
đường phố đă gặp
Mẹ Tê-rê-sa
Can-quưt-ta và
ch́a tay ra xin
bố thí. Bà lục
lọi hết các túi
áo mà không t́m
thấy một đồng
tiền nào. Bà
đành vỗ vai ông
lăo, vừa cười
vừa nói lời xin
lỗi v́ không có
ǵ để tặng cho
ông. Bấy giờ lăo
hành khất liền
nói: “Hôm nay bà
đă cho tôi một
món quà quí giá
nhất mà từ trước
đến giờ tôi chưa
bao giờ nhận
được. Món quà đó
chính là nụ cười
cảm thông và một
sự an ủi đầy
t́nh người của
bà. Tôi cảm thấy
vui mừng và hạnh
phúc, v́ tôi đă
được bà tôn
trọng và đối xử
b́nh đẳng!”.
Như vậy điều
quan trọng phải
làm là hăy chia
sẻ niềm vui cho
những người bất
hạnh, để qua
chúng ta họ gặp
được Chúa và tin
yêu Chúa, để
được chia sẻ sự
sống đời đời với
chúng ta.
4) SỐNG ĐƯỢC CHỈ
NHỜ BÁNH THÁNH
THỂ:
Năm 1868, một cô
gái người Bỉ yếu
ớt được in năm
dấu thánh tên là
LOUIS LATEAU. Từ
ngày đó, cô
không c̣n ăn
uống ǵ nữa.
Trong bảy năm
trời, cô sống
được là nhờ rước
Ḿnh Thánh Chúa
mỗi ngày.
Trường hợp tương
tự cũng xảy ra
với chị TÊRÊSA
NEWMAN và cô
MATTA ROBIN,
người đă sáng
lập Tu hội Bác
Ái. Những điều
kỳ diệu đó phần
nào chứng minh
cho lời Chúa
phán: “Người ta
sống không chỉ
nhờ cơm bánh...”
(Mt 4,4).- “Hăy
ra công làm việc
không phải v́
lương thực mau
hư nát, nhưng để
có lương thực
thường tồn đem
lại phúc trường
sinh, là thứ
lương thực Con
Người sẽ ban cho
các ông” (Ga 6,
27). Thế, lương
thực Chúa nói ở
đây là ǵ?
Chúa Giê-su đă
khẳng định:
“Chính tôi là
Bánh Trường
Sinh” (Ga 6,35).
Để có tấm bánh,
trước hết cần có
hạt giống. Hạt
giống được gieo
trong ruộng, rồi
được tưới bón,
làm cỏ... Cây
lúa cần ánh nắng
mặt trời để lớn
lên và đến mùa
trổ bông kết
hạt. Rồi phải
được gặt hái,
xay nhuyễn thành
bột ḿ. Bột được
nhào nặn thành
bánh và được
nướng chín trong
ḷ.
Đức Giê-su, tấm
bánh được Thiên
Chúa ban cũng đă
trải qua những
công đoạn tương
tự. Người đă
được Chúa Cha
gieo vào ruộng
trần gian, nơi
cung ḷng Trinh
Nữ Maria. Người
được lớn lên
dưới ánh mặt
trời làng
Na-gia-rét. Năm
ba mươi tuổi
Người chịu phép
rửa của Gio-an
Tẩy Giả tại sông
Gióc-đan và được
Chúa Cha tấn
phong làm Đấng
Thiên Sai. Người
đi khắp nơi rao
giảng Tin Mừng
Nước Trời và ban
ơn lành hồn xác
cho đám đông dân
chúng theo
Người. Sau cùng,
Người đă bị
nghiền nát và
được nướng chín
trong cuộc tử
nạn và phục
sinh, để trở nên
Bánh Thánh Thể
ban sự sống đời
đời cho chúng
ta.
3. THẢO LUẬN:
Trong những ngày
này, tôi sẽ làm
ǵ cụ thể để
chia sẻ t́nh
thương và niềm
tin cho những
người chưa nhận
biết Chúa bên
cạnh và chịu
nhiều bất hạnh?
4. SUY NIỆM:
1) Phép
lạ nhân bánh ra
nhiều của Đức
Giê-su:
Hơn ai hết, Đức
Giê-su thấu hiểu
cơm bánh vật
chất là một nhu
cầu không thể
thiếu để con
người được sống,
nên Người đă làm
phép lạ nhân
bánh ra nhiều để
nuôi đám đông
dân chúng được
ăn một bữa no
nê. Người cũng
dạy môn đệ cầu
Chúa Cha ban
bánh ăn hằng
ngày như lời
kinh Lạy Cha:
“Xin Cha cho
chúng con hôm
nay lương thực
hằng ngày”. Tuy
nhiên, Người
muốn mọi người
hiểu rằng:
“Người ta không
chỉ sống nhờ cơm
bánh”, nhưng họ
c̣n có những
khát vọng mà chỉ
ḿnh Đức Giê-su
mới có thể thỏa
măn là tin vào
Người là “Con
Đường, là Sự
Thật và là Sự
Sống”. Nhờ Người
mà chúng ta sẽ
được thỏa măn
các nhu cầu tinh
thần và đạt được
hạnh phúc trọn
vẹn.
2) Cần đi t́m
Chúa để đón nhận
hồng ân cứu độ:
Sau phép lạ nhân
bánh ra nhiều,
đám đông dân
chúng đă đi t́m
Đức Giê-su để
được Người ban
cho của ăn mà
không cần phải
vất vả làm việc.
Đức Giê-su không
chấp nhận điều
đó, nên Người
nói với họ:
“Thật, tôi bảo
thật các ông,
các ông đi t́m
tôi, không phải
v́ các ông đă
thấy dấu lạ,
nhưng v́ các ông
đă được ăn bánh
no nê”. Đức
Giê-su mời gọi
dân chúng hăy lo
t́m của ăn
thiêng liêng
mang lại sự sống
đời đời chứ đừng
chỉ đi t́m lương
thực vật chất hư
nát: “Hăy ra
công làm việc
không phải v́
lương thực mau
hư nát, nhưng để
có lương thực
thường tồn đem
lại phúc trường
sinh” (Ga 6,
27).
3) Lời Chúa và
Thánh Thể là
lương thực ban
ơn cứu độ:
Ông Phê-rô đă
hiểu được giá
trị của lương
thực thiêng
liêng chính là
Lời Chúa và Bánh
Thánh Thể nên đă
thưa với Đức
Giê-su: “Chỉ có
Thầy mới có
những Lời đem
lại sự sống đời
đời” (Ga 6,68).
Chính Đức Giê-su
cũng dạy về hiệu
quả của Bánh
Thánh Thể như
sau: “Ai ăn Thịt
và uống Máu Tôi
th́ được sống
muôn đời... Đây
là Bánh từ trời
xuống, không
phải như bánh tổ
tiên các ông đă
ăn và họ đă
chết. Ai
ăn Bánh này, sẽ
được sống muôn
đời” (Ga
6,54.58). Mỗi
ngày các tín hữu
chúng ta hăy
siêng năng tham
dự thánh lễ để
đón nhận hai của
ăn thiêng liêng
là Lời Chúa và
Thánh Thể Chúa.
Nhờ đón nhận
được hai của ăn
đó chúng ta mới
được sống đời
đời.
4) Chia sẻ t́nh
thương và niềm
vui ơn cứu độ
cho tha nhân:
- Ngoài
cơn đói cơm bánh
vật chất, người
ta c̣n có nhiều
cơn đói khác cần
được thỏa măn
như: Cơn đói
muốn được tôn
trọng; Đói muốn
được giao tiếp
với người khác.
Nhất là cơn đói
t́nh thương ơn
cứu độ. Đức
Giêsu đă không
làm phép lạ cho
Manna từ trời
rơi xuống cho
dân chúng ăn như
dân Do thái thời
kỳ xuất hành,
nhưng Người đă
nhân bánh ra
nhiều là h́nh
ảnh của bí tích
Thánh Thể Người
sẽ thiết lập như
Người đă phán:
“Chính tôi là
Bánh Trường
Sinh, Ai đến với
tôi không hề
phải đói. Ai tin
vào tôi chẳng
khát bao giờ”
(Ga.6,35).
- Trong những
ngày này, sau
khi dự lễ và đă được
thỏa măn cơn đói Lời
Chúa và Ḿnh
Thánh Chúa, mỗi
tín hữu chúng ta
cũng cần mang bánh Thánh
Thể là t́nh
thương ơn cứu độ đến
cho bạn bè chưa
biết Chúa,
các bệnh nhân
liệt giường, các
người già neo
đơn nghèo khó,
các đôi vợ chồng
bất hạnh có
nguy cơ đổ
vỡ hạnh phúc...
để chia sẻ niềm
vui ơn cứu độ
cho họ, noi
gương Mẹ Ma-ri-a
mang Chúa đi thăm
và chia sẻ niềm
vui ơn cứu độ
cho gia
đ́nh
Gia-ca-ri-a.
- Trong những
ngày này, chúng
ta sẽ làm ǵ để
trở thành những
Ki-tô khác?: Trở
nên tấm bánh
chia sẻ cho
những người
nghèo khó; nên
cánh tay phục vụ
những kẻ yếu
đuối; nên bạn
đồng hành với
những kẻ cô đơn;
nên ánh lửa hy
vọng sưởi ấm con
tim của tất cả
mọi người.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Cơm ăn áo mặc
tiền bạc của cải
là những nhu cầu
không thể thiếu
cho cuộc sống
thể xác. Ma quỷ
luôn cám dỗ
chúng con đi t́m
kiếm chúng, thay
v́ lẽ ra trước
hết chúng con
phải lo t́m kiếm
Nước Thiên Chúa
và sự công chính
của Người, c̣n
những thứ kia
như cơm ăn áo
mặc, của cải vật
chất và các nhu
cầu thể xác khác
th́ Chúa sẽ ban
cho chúng con
sau.
Lạy Chúa, chúng
con rất sợ bị
lâm vào cảnh
nghèo đói bần
cùng, nên thường
mải mê t́m kiếm
những của cải
chóng qua mà
chẳng thiết tha
ǵ với của cải
thiêng liêng là
Lời Chúa và
Thánh Thể Chúa.
Xin Chúa tha thứ
và giúp chúng
con luôn biết
t́m kiếm Chúa là
hạnh phúc và là
lẽ sống của cuộc
đời chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.
Đ. XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.