(29)
Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um,
Đức Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê,
có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo.
(30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên
cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói
cho Người biết tình trạng của bà. (31)
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ
dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã
lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những
ai bị quỉ ám đến cho Người. (33) Cả thành
xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và
trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì
chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi
ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.
(36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm.
(37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi
người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo
các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao
giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để
làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền
Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỉ.
2. Ý CHÍNH:
Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu
biểu của Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um:
Người giảng dạy trong hội đường vào ngày
Sa-bát (c. 21) ; Chữa một người bị thần ô
uế nhập (c. 23-28) ; Đến thăm nhà hai anh em
Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho
bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi
chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ
ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34).
Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến
một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa
Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ
mệnh được Cha trao phó là đi khắp miền
Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
3. CHÚ THÍCH:
- C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê:
Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga
1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành
Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới.
+ Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt
nằm trên giường: Người Do Thái
thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây nên
và là dấu chỉ Đức Chúa phạt tội nhân (x.
Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ
vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy thời đại
Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a loan báo đã
khởi đầu (x. Is 29,18).
- C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ
dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức
Giê-su làm khi cho kẻ chết sống lại (x. Mc
5,41), kẻ bị quỉ ám được chữa lành (x. Mc
9,27). Nâng đỡ dậy là một hành động
Đức Giê-su thường làm cho một người đau
nặng. Người bị liệt giường tượng trưng cho
sự chết, đã được Đức Giê-su nâng dậy,
tượng trưng cho sự sống lại. + Cơn
sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài:
Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng,
dọn bữa để tiếp đãi Đức Giê-su và các
môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học:
Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng
nếu được ơn Chúa giúp sức nhờ siêng năng
lãnh nhận các phép Bí Tích, thì sẽ trở
nên mạnh khỏe hơn và sẵn sàng dấn thân
phục vụ tha nhân hơn (x. Ga 13,14-15). +
Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức
khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ
của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ
nhất trong tuần.
- C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm
đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người:
Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn
mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ.
+ Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh
tật: Đức Giê-su đến để chữa lành
mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người
không những cứu chữa các bệnh tật về thể
xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần
như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng
nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì
chúng biết Người là ai: Đức Giê-su
cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ
Thiên Sai của Người.
- C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn
tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang
vắng và cầu nguyện: Trong thời gian
giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su
năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là
trong những trường hợp quan trọng: Trong
cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x.
Lc 3,21) ; Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ
(x. Lc 6,12) ; Sau phép lạ nhân bánh ra
nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước khi Phê-rô tuyên
xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên
Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên núi
(x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ nạn (x.
Mt 26,39)...
- C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo
nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là
thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông
đồ đối với Thầy Giê-su. + “Mọi người
đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng
hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe
Người giảng dạy và được Người chữa lành
bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng xã chung quanh, để
Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra
đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng
được rao giảng không phải cho một ít người
hay chỉ dành cho dân Do thái... nhưng là cho
hết mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19
; Cv 1,8).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao Đức Giê-su lại cấm ma quỉ
nói ra sự thật: Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ
Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát
ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống
như Môi-sê đã từng ra tay cứu con cháu
Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập xưa.
Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo
Ý Chúa Cha lại không nhằm đáp ứng ước
mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã
được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin
Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố
cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù
đày, áp bức bất công... một thời đại mới
đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình
an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không
muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu
thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để chúng
tuyên xưng Người là Đấng Thiên Sai khi chưa
kịp chuẩn bị cho dân chúng hiểu đúng sứ
mệnh Thiên Sai ấy, thì họ sẽ bắt Người
tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma
sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt
toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng
minh sự e dè này là có cơ sở: Vào năm 70,
khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức,
đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền
Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây
hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã
chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt
cháy cả đền thờ, tàn sát quân lính còn
sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái
phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp nơi
trên thế giới. Tai họa này đã được Đức
Giê-su tiên báo cho các môn đệ biết và
dùng nó như một hình ảnh để mặc khải về
ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn
đệ biết phải làm gì để có thể tồn tại
trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su là Chúa Con ngang
hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin
với Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay
Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người
lại có hai bản tính: Một là Thiên Chúa,
hai là loài người. Là “Con Thiên Chúa”,
Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa
Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa
Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con
Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại
để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài
người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề
này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức
Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như một
người trần thế. Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh
hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên
trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn
vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên
Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl
2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi
ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.
(36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm.
(37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi
người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo
các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao
giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để
làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền
Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỉ.
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN:
TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa
tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng
Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng:
Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên
vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể
một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào
khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn
tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc
đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi
người đều nhớn nhác không biết điều gì
mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va
chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì
ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và
không biết phải làm gì. Nhưng rồi một
hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng”
vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều
lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi
ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì
bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng
trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình
trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của
thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi
thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối
cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp
thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị
chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng
thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp
không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi
đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào
mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù
ghét công khai khích bác... Bấy giờ điều
tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh
và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy
Chúa, Chúa muốn con làm ǵ?” Rồi sẵn sàng
lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn.
Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên
Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do
đó, ta cần tránh làm những điều xấu
khiến người đời khinh thường đạo thánh
Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt
để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa
chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến
Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho
tập thể, và tránh những việc ích kỷ hại
nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp
đời” như làm cho mọi người đều có cơm ăn
áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và
xứng đáng với nhân phẩm hơn...
2) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN:
LÀNH BỆNH NHỜ CÓ BÌNH AN TRONG TÂM HỒN:
Trong cuốn “Những biến cố trong cuộc
đời một bác sĩ”, tác giả là bác sĩ
Pôn Tô-mi-ê (Paul Toumier) đã thuật lại câu
chuyện sau: “Kết quả cuộc xét nghiệm máu
của một bệnh nhân cho thấy anh ta bị chứng
thiếu máu trầm trọng. Vì thế tôi đã làm
giấy để chuyển anh ta đến Văn Phòng Y Tế
Quận để xin nơi đây cho anh được nghỉ việc
một thời gian có ăn lương, đồng thời cũng
xin Quĩ Bảo Trợ Công Nhân Viên cho phép anh
được đi nghỉ 2 tuần để dưỡng bệnh. Nhưng
sau đó ba hôm, bệnh nhân kia đã quay lại
bệnh viện và đưa cho tôi lá thư của anh
bác sĩ bạn tôi, đang làm việc tại Văn
Phòng Y Tế. Nội dung lá thư ấy như sau:
“Theo đề nghị của anh, tôi đã làm mọi thủ
tục để bệnh nhân của anh được nghỉ việc
và được đi dưỡng bệnh. Nhưng bệnh nhân lại
khai là anh ta đã được khỏi bệnh rồi.
Nhưng tôi không tin, và đã cho tái xét
nghiệm máu, và quả thật tôi rất ngạc
nhiên khi thấy kết quả lần xét nghiệm mới
này lại không ăn khớp với kết luận trong
bệnh án mà anh đã gửi cho tôi. Vậy đề
nghị anh tiến hành xét nghiệm máu thêm
một lần nữa trước khi kết luận chính xác
về trường hợp đặc biệt này”.
Thật là ngoài sự tưởng tượng của tôi:
Kết quả xét nghiệm máu cuối cùng này
đúng như lời khai của bệnh nhân là anh ta
đã hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi hỏi bệnh nhân
có uống thuốc hay sử dụng phương thức
điều trị nào trong mấy ngày qua không? Anh
ta quả quyết là không. Nhưng rồi anh ta cho
biết trong mấy ngày vừa qua, mỗi ngày anh
ta đã dành ra một tiếng đồng hồ để cầu
nguyện với Chúa, và cũng nhờ bầu khí
thinh lặng cầu nguyện mà anh ta đã bắt tay
hòa giải được với một kẻ đã từng vu
khống làm hại anh, khiến anh rất uất ức
và quyết tâm trả thù. Giờ đây sau khi làm
hoà, anh cảm thấy tâm hồn thanh thản và
bình an. Rồi tác giả kết luận: Có nhiều
chứng bệnh thể lý sẽ được chữa trị dễ
dàng hơn một khi chứng bệnh trong tâm hồn
được chữa lành trước.
3) PHẢI CẢI TẠO THẾ GIỚI
BẮT ĐẦU TỪ BẢN THÂN M̀NH:
Vào lúc sắp chết, một nhà hiền triết đã
khiêm tốn thú nhận như sau: “Lúc thiếu
thời, tôi là một người đầy nhiệt huyết
và có ước vọng cao. Trong sự hăng hái của
tuổi trẻ, tôi đã xin Chúa cho mình có
khả năng để cải tạo thế giới nên tốt,
nghĩa là: không còn chiến tranh thù hận do
những tranh chấp về quyền lợi giữa các
quốc gia. Khi đã sống được nửa đời người,
tôi tự xét và thấy mình vẫn chưa làm
được điều gì đáng kể, chưa làm được gì
để giúp cho thế giới được tốt hơn! Tôi
đành đổi lại lời cầu nguyện cho phù hợp
với thực tế như sau: “Lạy Chúa, con chỉ
dám xin Chúa giúp con cải tạo những người
thân và bạn bè chung quanh con nên tốt hơn
mà thôi”. Nhưng rồi khi về già, thời
gian sống chẳng còn được bao lâu, tôi tự
xét và thấy mình đã quá ảo tưởng khi
muốn cải tạo tha nhân. Vì trong suốt thời
gian qua, tôi đã chẳng làm được gì giúp
ích cho tha nhân, và cũng chẳng biến đổi
được một ai nên tốt lành hơn! Và một lần
nữa, tôi đành phải thay đổi lời cầu
nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con
biến đổi chính bản thân con”. Giả như
ngay từ tuổi thanh xuân tôi đã biết cầu
nguyện khiêm tốn và quyết tâm tự cải tạo
trước hết từ bản thân mình, thì có lẽ
giờ đây tôi đã không phải hối tiếc vì đã
sống cả một đời vô ích!
3.
THẢO LUẬN: 1) Theo bạn thì nhà hiền
triết trong câu chuyện trên quyết định rút
bớt những điều quyết tâm là đúng hay sai?
Câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” hiện nay còn có giá trị
không? Tại sao? 2) Nếu bạn muốn góp phần
vào việc cải thiện xã hội cho an toàn
sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn... thì
phải bắt đầu từ đâu và bằng cách nào?
4. SUY NIÊM:
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc
vất vả của Đức Giê-su từ sáng sớm đến tối đêm.
Qua đó, Đức Giê-su đă nêu ra những chỉ dẫn để
thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.
1) Cần phải chu toàn sứ vụ loan báo
Tin Mừng:
Ngày Sab-bát,
Đức Giê-su đến Hội đường thành Ca-phác-na-um và
được mời đọc Sách Thánh và giải nghĩa Kinh
Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng là một phần quan
trọng của đời sống người môn đệ Đức Giê-su.
Những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su phải
hăng say rao giảng Lời Chúa cho mọi người, để
nhờ lắng nghe và thực hành Lời Chúa, người ta
mới biết sự thật về Thiên Chúa, biết được con
đường ḿnh phải đi. Bấy giờ Lời Chúa sẽ trở
thành ánh sáng soi đường hướng dẫn tư tưởng, lời
nói, hành động của người tín hữu giúp họ có Sự
Sống đời đời.
Mỗi người tín hữu cần ư
thức sứ vụ của ḿnh là loan báo Tin Mừng như
thánh Phaolo đă nói trong bài đọc II hôm nay:
“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”
(1Cr 9,16)
2)
Tin Mừng phải
hướng đến việc giải thoát con người:
Ma
quỉ luôn muốn giam cầm con người trong ṿng nô
lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người sẽ bị mất hết
ư chí, không thể tự làm điều lành, mà luôn phải
làm theo lệnh truyền của ma quỉ. Tin Mừng của
Đức Giê-su có sức mạnh giải thoát con người khỏi
sự trói buộc của ma quỉ, khỏi những phong tục mê
tín lạc hậu. Nhờ đó con người có thể vươn lên,
sống xứng đáng với phẩm giá làm con Thiên Chúa.
Bà nhạc của Si-mon là một bằng chứng: Khi được
giải thoát khỏi bệnh sốt, bà liền trỗi dậy làm
bữa ăn phục vụ Chúa va các tông đồ.
3)
Tin Mừng phải
được loan báo nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp:
Sáng sớm,
Đức Giê-su đă ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện với
Chúa Cha. Người đă vất vả cả ngày để rao giảng
chữa bệnh và trừ quỷ, nên Người đă dành riêng
buổi sáng sớm để cầu nguyện với Chúa Cha. Qua đó
cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện. Đức Giê-su
cầu nguyện v́ muốn được kết hiệp mật thiết với
Chúa Cha, để t́m thánh ư Chúa Cha và để có nguồn
sức mạnh giúp cho các hoạt động loan báo Tin
Mừng. Các tín hữu hôm nay muốn dấn thân thi hành
sứ vụ loan báo Tin mừng, mở mang Nước Trời cũng
phải biết noi gương Đức Giê-su cầu nguyện để đón
nhận được sức mạnh từ nơi Chúa Cha. Việc chăm
chỉ học sống Lời Chúa rất cần để hiểu biết thánh
ư Thiên Chúa và chia sẻ t́nh thương của Chúa cho
tha nhân.
4) Quảng đại cho đi là phương thế loan Tin Mừng
hữu hiệu nhất:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su sau khi ra
khỏi hội đường Ca-phác-na-um, đă chữa khỏi bệnh
sốt cho bà mẹ vợ của ông Phê-rô, đă chữa lành
mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Chúng ta dù
có đang bị đau khổ, th́ cũng sẽ được vơi bớt nếu
biết mở rộng ḷng để cho đi, biết ra khỏi ḿnh
để đến với tha nhân. Sức nặng của thập giá sẽ
trở nên nhẹ nhàng nếu chúng ta biết đến cầu
nguyện với Chúa Giê-su và biết quên ḿnh xoa dịu
nỗi đau của tha nhân. Không ai quá nghèo đến độ
không thể cho đi một điều ǵ đó: Một nụ cười cảm
thông, một ánh mắt khích lệ động viên, một bàn
tay nâng đỡ, một chén cơm manh áo cho người
nghèo khó kèm theo tấm ḷng yêu thương... Chính
trong lúc cho đi là lúc chúng ta sẽ được nhận
lại như lời Chúa Giê-su: “Cho th́ có phúc hơn là
nhận” (Cv 20,35) và như lời cầu trong kinh hoà
b́nh của thánh Phan-xi-cô: “V́ chính khi hiến
thân là khi được nhận lănh. Chính lúc quên ḿnh
là lúc gặp lại bản thân. V́ chính khi thứ tha là
khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui
sống muôn đời”.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy dừng bước chân
con, xin hãy dừng bước chân con! Xin cho thần
kinh con đang suy nhược được mạnh mẽ, cho
gân cốt con đang rệu rã được hồi phục, cho
trái tim con đang lo buồn được an ủi, cho
tâm hồn con đang xáo trộn được bình an...
Xin dạy con biết dừng lại công việc đang
làm trong vài ba phút ngắn ngủi để con trở
về đối diện với lòng mình, lắng nghe lời
Chúa và từ đó rút ra sự can đảm mới, sức
mạnh mới và nguồn sống mới để đạt được
kết quả tốt hơn. Lạy Chúa, xin hãy dừng
bước chân con!
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.