I.
HỌC LỜI CHÚAxem
40 giây lời Chúa
1. TIN MỪNG: Mc 6,1-6
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là ǵ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngă v́ Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, th́ cũng chỉ là ở chính quê hương ḿnh, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đ́nh ḿnh mà thôi”. (5) Người đă không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ v́ họ không tin.
2. Ư CHÍNH: Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đă về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về thân thế ḍng dơi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. v́ họ cứng ḷng tin nên Đức Giê-su đă không làm nhiều phép lạ tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo: Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh như ông Na-tha-na-en đă nhận xét: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái ǵ hay được?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường: Tại các hội đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đă nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lư của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đă từng làm tại thành Ca-phác-na-um.
- C 3: + Là bác thợ: Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su đă học cha nuôi là Giô-xép. + Con bà Ma-ri-a: Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ v́ ông đă qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ b́nh thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?: Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có ǵ đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, v́ theo họ: ngoài Đức Giê-su ra, bà c̣n sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu ḷng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng v́ thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đă trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đă đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, th́ dân làng đă phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay v́ nói từ chung chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngă v́ Người: Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô th́: Đối với những kẻ kiêu căng cứng ḷng tin, th́ Đức Giê-su đă trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đă trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngă xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
- C 4-6: + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng...”: Câu này tương tự như câu: “Bụt nhà không thiêng!”. Dân làng Na-da-rét đă vấp ngă trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như: Làm nghề thợ mộc là nghề tay chân hèn kém, có những thân nhân b́nh thường... Đó là những chướng ngại khiến họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai. + Người đă không thể làm được phép lạ nào tại đó: Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giê-su luôn đ̣i người ta phải có đức tin. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con, ḷng tin của con đă cứu chữa con” (Mc 5,34); Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hăy đi, ḷng tin của anh đă cứu anh!” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, v́ không tin, nên dân làng đă không xứng đáng được Đức Giê-su ban ơn là tại đây Người đă không làm nhiều phép lạ như ở những nơi khác.
4. CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích ǵ? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm ǵ? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về thân nhân tầm thường của Đức Giê-su? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đă không trọn đời đồng trinh, v́ ngoài Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay c̣n kể ra tên nhiều anh em và chị em khác của Người? 6) Dân làng Na-da-rét đă dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai? 7) Tại sao Đức Giê-su đă không làm nhiều phép lạ tại quê hương Người?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao?” (Mc 6,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:
Trong truyện cổ Trung hoa có câu chuyện như sau: Dương Phủ lúc c̣n nhỏ nhà nghèo, nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng để kiếm tiền về phụng dưỡng tỏ ḷng hiếu thảo với cha mẹ. Một hôm nghe bên đất Thục có một vị đại sư tên là Vơ Tề rất nổi tiếng, Dương Phủ liền xin phép cha mẹ để đi tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, Dương Phủ gặp một lăo ông quen biết. Hai người hàn huyên nói chuyện và sau khi biết Dương Phủ muốn bỏ nhà đi tu học với vị đại sư Vơ Tề, lăo ông liền khuyên anh như sau: “Gặp đại sư Vơ Tề, chẳng bằng gặp Đức Phật”.
Dương phủ lại hỏi: “Gặp Đức Phật ở đâu?”
Lăo ông bảo: Anh hăy quay về nhà. Khi thấy người nào quấn vải trên người và đi dép ngược th́ đó chính là Đức Phật.
Dương phủ vâng nghe lời lăo ông quay về nhà. Trên đường trở về, anh để ư t́m nhưng không gặp một ai có đặc điểm như lăo ông đă chỉ. Khi về tới nhà lúc ban đêm, anh gọi cửa. Mẹ anh nghe tiếng con trai rất vui, vội quấn chiếc mền đang đắp lên người để tránh bị lạnh, xỏ chân vào đôi dép nhưng đi ngược mà bà cũng không quan tâm, rồi vội vàng chạy ra mở cửa đón con vào nhà. Bấy giờ anh nh́n kỹ, thấy mẹ anh giống như đặc điểm đức Phật mà lăo ông đă nói trước là quấn khăn vải trên người và chân đi dép ngược.
Anh đă ngộ ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ và người thân ở trong cùng nhà với ḿnh. Và anh đă yêu thương phục vụ Đức Phật là chính cha mẹ của anh như câu người xưa dạy: “Tu đâu cho bằng tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
2) CHINH PHỤC L̉NG NGƯỜI BẰNG L̉NG BÁC ÁI
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đă bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đă được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi t́nh h́nh ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh mục của ḿnh. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như cha đă thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nh́n tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái ǵ vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đă chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. C̣n bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài chẳng có ǵ để phân phát như các linh mục da trắng kia. T́nh h́nh lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đă xầm x́ với nhau: “Ông linh mục da đen này c̣n bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay v́ bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN: Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời khiếm nhă khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh?
4. SUY NIỆM:
1) “Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lư do tại sao Đức Giê-su bị dân làng cùng quê Na-da-rét không tin là Đấng Thiên Sai, dù họ có thán phục về tài giảng dạy và quyền năng chữa bệnh của Người. Sở dĩ họ không tin v́ họ có thành kiến khi bị vấp phạm về gia thế hèn kém của Người: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) thù ghét đạo đă có lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một gă thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế!”
C̣n chúng ta hôm nay chắc cũng không hơn ǵ đức tin của dân làng Na-da-rét khi xưa: Chúng ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin Mừng hôm nay lại cho thấy một Đức Giê-su Con Thiên Chúa chịu bó tay trước sự cứng ḷng của con người, như Tin Mừng đă ghi nhận: “Người đă không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6,5).
Từ đó cho thấy con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu độ như dân làng Na-da-rét do thành kiến đă không tin và từ chối ơn cứu độ do Đức Giê-su mang lại.
2) Người đă không thể làm được phép lạ nào tại đó:
Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho con người, nhưng người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ với ḷng tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng người đời đă từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem năm xưa đă xua đuổi Chúa Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ, như Tin Mừng Gio-an viết: “Người đă đến nhà ḿnh, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Thực vậy: Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa th́ họ đă kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên khùng. Người đến đem b́nh an, chân lư và thiết lập nước Trời th́ bị mang tiếng là xách động quần chúng và là kẻ cầm đầu phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân Do thái đă ra tay bắt bớ và kết án tử h́nh cho Đức Giê-su rồi c̣n làm áp lực đ̣i Tổng Trấn Phi-la-tô kết án tử h́nh thập giá cho Người.
Ngoài thành kiến th́ sự cứng ḷng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không muốn nh́n, không muốn nghe, không muốn tin... như Tin Mừng ghi nhận: “Thế là đối với họ đă ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nh́n cũng chẳng thấy; v́ ḷng dân này đă ra chai đá: chúng đă bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và ḷng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành (Mt 13,13-15).
3) Và họ vấp ngă v́ Người:
V́ các người đồng hương quá biết rơ về ḍng dơi, gia cảnh của Đức Giê-su: Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria là những người đang chung sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đă không nhận ra Thiên tính nơi con người của Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đă được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giê-su đă làm ở Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa các bệnh nhân, những người bị quỷ ám, phục sinh kẻ chết... Nhưng do kiêu ngạo, cố chấp, dân làng Na-da-rét đă không tin một Đấng Cứu Thế lại có lối sống quá giản dị, xuất thân từ cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên họ đă có những lời nói, cử chỉ bất kính thể hiện sự không tin Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, th́ cũng chỉ là ở chính quê hương ḿnh”:
Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2: 5). Thậm chí, lắm khi đe doạ họ c̣n đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông phải tuyên sấm lời Chúa cáo trách tội lỗi của các vua quan. Thánh Kinh đă ghi lại ngôn sứ Nathan dám tố cáo tội ngoại t́nh, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay tiên tri Elia, dám nói thẳng với vua Akhab việc ông vua này đă giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của cách bất công... Kết quả là các ngôn sứ đă bị hận thù giết hại. Chính Đức Giê-su cũng đă bị các người đồng hương Na-da-rét coi thường nên Người đă phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, th́ cũng chỉ là ở chính quê hương ḿnh, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đ́nh ḿnh mà thôi” (Mc 6,4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn thi hành sứ vụ: “Người đă đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.
Mỗi tín hữu chúng ta khi chịu phép rửa tội cũng được tham phần vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su, nên cũng có bổn phận phải loan báo Tin Mừng, bảo vệ sự sống, bênh vực công lư nhân danh Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi người đời có sẵn sàng nghe lời chúng ta rao giảng không khi chúng ta lại có lối sống phản chứng: ăn nói gian ngoa, lọc lừa, tham lam, nghiện ngập, sống thiếu t́nh người... Cần phải cấp thời tu sửa đời sống trở nên tốt lành noi gương Đức Giê-su, để công việc rao giảng Tin Mừng của chúng ta mới có điều kiện đạt được kết quả tốt đẹp.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải chịu thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ c̣n thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh... Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người khác lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn v́ biết rằng: Thất bại là mẹ thành công. Chính Chúa xưa cũng đă từng chịu thất bại trước sự cứng tin của những đồng hương Na-da-rét. Nhưng Người không nản ḷng thối lui, mà luôn trung thành đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” của Chúa Cha, qua sự chết để sống lại hầu ban ơn cứu độ cho loài người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.