I.
HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 12,38-44
Một hôm, trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su
nói với đám đông dân chúng rằng: "Anh em phải
coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng
xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh
dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám
tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại
c̣n làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những
người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn." Đức Giê-su
ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền
Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó
ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.
Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng
tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma.
Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy
bảo thật anh em: bà goá nghèo này đă bỏ vào
thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều
rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó;
c̣n bà này đă túng thiếu, lại c̣n bỏ vào đó tất
cả những ǵ bà có, tất cả những ǵ để nuôi thân
"
2.Ư CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần
tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo
Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như
sau: Trước hết, Đức Giê-su khiển trách thói đạo
đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4
thói xấu như: ăn mặc đài các, t́m kiếm hư danh,
tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó,
Người đề cao ḷng đạo đức của một bà góa nghèo,
biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ.
Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ
có ḷng hy sinh, nên bà đă được Đức Giê-su đánh
giá là đă bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
- C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông
kinh sư”:
Đức Giê-su cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị
lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật
sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng:
Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà
các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự.
Người Do thái thường tỏ ḷng tôn kính đối với
các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo
này để tỏ ra ḿnh có ḷng đạo đức và cũng mong
được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói
xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5).
+ thích được người ta chào hỏi ở những nơi
công cộng: Người Do thái hay chào hỏi
các kinh sư, là những người giải thích Kinh
Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh
hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”,
được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh
sư. V́ muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông
thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được
thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh
vọng.
- C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội
đường:
Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế
danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện
với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng.
Ai ngồi ở đây th́ không bị che khuất và mọi
người trong hội đường có thể nh́n thấy họ. Các
kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế
danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền.
+ thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc:
Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ
ngồi được xếp đặt rơ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở
bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và
tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh
bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của
người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ
sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết
tài sản của các bà góa: Các bà góa
thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào
hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl
24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà
góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là
cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong
hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách
chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. +
làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc
các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện
dài ḍng th́ ai cũng rơ. Người ta bảo rằng:
Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên
Thiên Chúa tâm t́nh yêu mến mà chỉ nhằm phô
trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ
cố t́nh cầu nguyện tại ngă ba đường, nơi mà
người ta dễ thấy mà ca tụng ḷng đạo đức của họ.
+ họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn:
Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô
thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng
tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh
22,21-23). Đức Giê-su cho biết: Những hành vi
này của các kinh sư chỉ là h́nh thức đạo đức giả
và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong
ngày tận thế.
- C 41-42: + Đức Giê-su ngồi đối diện với
thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát
xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa
sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là
cửa Đẹp. Đức Giê-su đă đến ngồi tại đó sau khi
đă tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và
tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ
có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự
nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu
đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo:
Một thân phận đáng thương v́ bị cô thế
cô thân không nơi nương tựa, nhất là c̣n nghèo
tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị
giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là
đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó
cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai
đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma
là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ
hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự
tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng
người giàu và kẻ nghèo hèn.
- C 43-44: + Bà góa nghèo này đă bỏ vào
thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết
là theo cách đánh giá của Đức Giê-su khi xét
theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản
của bà. Bà đă dâng ngay cả những cái cần cho
cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói
với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu
phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un:
“Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, c̣n Đức Chúa
th́ thấy tận đáy ḷng” (1 Sm 15,7). + mọi
người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của
dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, v́ “của
nhiều ḷng ít”. + c̣n bà này th́ rút từ
cái túng thiếu của ḿnh: Bà “của
ít ḷng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy
sinh bản thân nên đă tăng giá trị lên nhiều lần.
HỎI: 1- Đức Giê-su đă quở trách bọn kinh sư và
biệt phái về các thói xấu nào? 2-Người đánh giá
thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đă
dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo
đă bỏ thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12,43).
2. CÂU CHUYỆN:
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức
chuyên đi làm công tác bác ái xă hội. Một hôm,
bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất
thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai
lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính
kỳ họp này sẽ t́nh nguyện đóng góp số tiền một
triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có
nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một
triệu ngang bằng với ḿnh, bà muốn tỏ ra quảng
đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đă ghi
vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng.
Rồi thay v́ rút bao thư chứa hai triệu, th́ bà
lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền năm
triệu đồng mà bà định mang đi mừng đám
cưới con trai của bà bạn thân đă từng giúp đỡ bà
rất nhiều ngay sau buổi họp mặt hôm đó. Khi phát
hiện ra đă đưa lộn phong b́, bà muốn đến bàn thu
ngân xin lại số tiền đă góp dư kia, nhưng lại sợ
bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng
bà đành chịu vậy, nhưng tự trách ḿnh đă bất cẩn
không kiểm tra phong b́ trước khi nộp cho thủ
quỹ. Nhiều ngày sau đó bà vẫn luôn cảm thấy tiếc
về số tiền đă lỡ ủng hộ thêm ngoài dự tính kia.
3. SUY NIỆM:
1)Giá trị của một việc bác ái từ thiện căn cứ
trên thiện chí của người cho. Ḷng tốt của người
đàn bà trong câu chuyện trên là đă quyết định
giúp người bị thiên tai số tiền một triệu đồng.
Nhưng thực tế bà đành miễn cưỡng ghi sổ vàng cứu
trợ số tiền hai triệu do tính tự cao muốn vượt
trên người khác để t́m tiếng khen… nên theo lời
Chúa phán: bà đă được thưởng công rồi (x. Mt
6,2). Việc rút nhầm bao thơ năm triệu đồng là
ngoài ư muốn của bà. Bà muốn đ̣i lại số tiền đă
đưa dư kia, nhưng do sĩ diện nên đành chấp nhận.
V́ thế, số tiền đóng góp thêm ấy không có giá
trị về mặt thiêng liêng trước ṭa phán xét sau
này.
2)Về 3 cách cho: Qua câu chuyện trên, chúng ta
có thể phân biệt ba cách cho như sau:
+ Cho bất đắc dĩ: Do miễn cưỡng cho nên trong
ḷng cảm thấy khó chịu. Hạng người này thường
nói: “Tôi ghét hắn ta, nhưng đành “thí” cho hắn
ít tiền để hắn mau biến đi cho khuất mắt!”.
+ Cho v́ bổn phận: Do cho để tránh bị lương tâm
cáo trách nên ḷng cảm thấy không vui. Hạng
người này thường nói: “Tôi bị rơi vào t́nh trạng
“tiến thoái lưỡng nan”: “Bỏ th́ thương mà vương
th́ tội!” Thôi th́ đành phải giúp đỡ hắn cho
xong bổn phận!”.
+ Cho v́ t́nh yêu thương: Do tự nguyện cho nên
ḷng thấy vui. Nếu bị trả lại th́ buồn. Hạng
người này thường nói: “Tôi có thể giúp ǵ cho
bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ khó khăn bạn
đang gặp phải”.
3)Thiên Chúa luôn nêu gương quảng đại cho đi và
mời gọi chúng ta học làm theo Người:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Người lại
cho cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ xin vài ngụm nước, mà Người lại
cho cả ḍng suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Người lại cho
cả băi biển rộng dài,
+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà
Người c̣n cho cả Thân Ḿnh Máu Huyết của Người.
4)PHĂNGSÍT BANPHUA (francis balfour) đă kê ra
một số việc cho cách quảng đại như sau:
+ “Món quà đẹp nhất cho kẻ thù của ta chính là
ḷng khoan dung tha thứ,
+ Quà cho bạn bè của ta là sự trung tín chân
thành,
+ Quà cho các em bé là gương sáng khiêm nhường
phục vụ
+ Quà cho người cha trong gia đ́nh là sự tôn
kính vâng lời,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương,
+ Và cuối cùng, quà cho người chung quanh là nụ
cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái,
một lời khen thành thật và thái độ khiêm hạ phục
vụ noi gương Đức Giê-su”.
4. THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người
chúng ta sẽ cho đi những ǵ thiết thực nhất theo
khả năng của ḿnh cho những người chung quanh?
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Cách đánh giá của Chúa trong
Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nh́n nhận sự việc
của chúng con. V́ “Loài người th́ nh́n mặt, c̣n
Chúa lại nh́n ḷng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà
góa nghèo đă bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết,
không phải v́ số tiền nhỏ bé, nhưng v́ ḷng mến
Chúa: “Bà đă dâng tất cả những ǵ ḿnh có để
nuôi sống ḿnh”. Về phần chúng con: Nhiều khi
chúng con dễ nản ḷng khi không được người khác
biết đến... Xin thanh luyện ư hướng của chúng
con. Chúng con tin rằng: Nếu việc chúng con làm
tốt,mà có bị nói xấu, vẫn có giá trị “tôn vinh
Chúa Cha“ (x Mt 5,16).
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA. –Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH